Cách đây năm năm, vào dịp GS Nguyễn Tài Cẩn, nhà khoa học và văn hóa, bậc trưởng lão nổi tiếng của Ngôn ngữ học nước nhà, tròn bảy mươi tuổi, tôi có viết một bài nhỏ: *Thầy tôi* để kính thầy. Năm nay (2000), thầy bảy mươi lăm tuổi, vừa có vinh dự được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học.
>> GS Nguyễn Tài Cẩn - Người soi rọi ngọn nguồn tiếng Việt
>> Kỳ II: Lội ngược dòng hơn mười thế kỷ
>> Kỳ I: Những câu hỏi "muôn năm cũ"
VÀI TIỂU KHÚC VỀ THẦY TÔI
GS. Đinh Văn Đức
Cách đây năm năm, vào dịp GS Nguyễn Tài Cẩn, nhà khoa học và văn hóa, bậc trưởng lão nổi tiếng của Ngôn ngữ học nước nhà, tròn bảy mươi tuổi, tôi có viết một bài nhỏ: *Thầy tôi* để kính thầy. Năm nay (2000), thầy bảy mươi lăm tuổi, vừa có vinh dự được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học. Dịp này cũng đúng lúc ngành Ngôn ngữ học trường ta sắp kỷ niệm bốn mươi lăm năm hoạt động. Tôi muốn viết đôi lời để mừng tiếp. Tuy nhiên, cảm xúc không thể lặp lại cho nên tôi coi bài viết lần trước là tiểu khúc thứ nhất, và lần này là tiểu khúc thứ hai. Và cũng xin mượn lời PGS Mã Giang Lân:
“Cuộc vui nhớ buổi hôm nay,
Chén mừng xin hẹn ngày thầy tám mươi”
Tiểu khúc thứ nhất
Năm nay (1996), thầy tôi, GS Nguyễn Tài Cẩn bảy mươi tuổi. Tôi muốn viết đôi dòng như lời tri ân ông của một người học trò. Nhưng thấy khó quá!
Thầy tôi học rộng, tài cao mà trang giấy nhỏ thì chỉ nói được ít ý. Vả lại, tính ông rất khí khái, Nho giáo “thấm sâu vào xương tủy” (Lời GS Phan Ngọc), không muốn người khác nói về mình và tự mình cũng không muốn nói về chữ “Ngã”.
Thuở còn đi học phổ thông, một thầy tôi lúc đó - GS Vũ Ngọc Khánh - trong một lần chê tôi không biết trình bày bảng đã nói: “Tôi có ông bạn là Nguyễn Tài Cẩn, bậc tài hoa, chữ viết rất đẹp, viết bảng khó ai bì. Anh mà được học ông ấy thì được nhiều điều lắm”. Một lần khác, thầy Đặng Văn Đại, dạy tôi ở cấp II, lại nói với cha tôi: “Anh Nguyễn Tài Cẩn vừa đỗ Phó bác sĩ ¹ ở Liên Xô cùng với anh Nguyễn Toàn Cảnh”.
Cha tôi vui và giải thích cho tôi: “Bác Cẩn là trưởng ban Tu thư cũ của ba ở Sở Giáo dục Liên khu 4 ngày trước, bác ấy là người giỏi lắm”.
Thế rồi sau đó ít năm tôi vào khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuối hè năm thứ hai (1962), dọc con đường trồng cây hoa phượng ở cư xá khoa Ngữ - Văn tại làng Láng, tôi thấy có một người đội mũ phớt, đeo kính mát, mặc com-lê dắt xe máy vào khoa.
Lớp sinh viên thì thầm bảo nhau: “Thầy Nguyễn Tài Cẩn đấy!”. Ký ức của tôi thức dậy, cộng với tính tò mò của tuổi trẻ, tôi lân la đến gần ông, nhưng không biết thêm được điều gì.
Mấy ngày sau, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy chính ông trong bộ đồ rất giản dị ngồi hút thuốc lào ở hàng nước cạnh cổng trường, tác phong rất thoải mái, còn học trò lớp trên thì xúm xít quanh ông cười nói cực kỳ vui vẻ với thầy… thế rồi, sau đó cơ may đã cho tôi, trong suốt 35 năm qua, được sống, làm việc bên Thầy, thầy đã dìu dắt nhiều thế hệ, trong đó có tôi, trưởng thành cùng với nền Ngữ học Việt Nam.
Con người khoa học của GS Nguyễn Tài Cẩn có thể tóm tắt trong 8 chữ: “Sâu sắc - thông thái - tài hoa - nghiêm khắc”. Mỗi chữ chỉ cần nêu một ví dụ. Với việc mô tả thành công danh ngữ tiếng Việt, đi xa tới mức, có lúc coi “loại từ” là trung tâm, ông đã đặt lại cả hệ thống miêu tả cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt (1960). Với việc đặt đúng cương vị ngôn ngữ học của “tiếng một” ông đã khẳng định ảnh hưởng bao quát của đặc trưng “đơn lập” này đối với tiếng Việt (1960). Những tư tưởng đó rất sâu sắc, ngày nay đã trở thành những nội dung cơ bản của các cuộc thảo luận khoa học về tiếng Việt.
Là người thông thái, ông am hiểu tường tận Ngôn ngữ học, Hán - Nôm, ngôn ngữ học lịch sử, các lĩnh vực của Việt ngữ học. Diện mạo của công trình của ông thật quảng đại mà lĩnh vực nào cũng rất sâu sắc. Ông hiểu cổ và hiểu kim, bắt rất nhanh những vấn đề của ngôn ngữ học hiện đại trong lúc có thể thảo luận và đề xuất những ý kiến rất độc đáo về cổ ngữ học.
Thầy Cẩn cũng là một bậc tài hoa, ông dồi dào thi tứ, làm thơ rất nhah và hay, đặc biệt là thơ chữ Hán. Tuyển thơ ông chắc chắn ông được coi là một trong những nhà thơ chữ Hán cuối cùng của thế kỷ này. Ở giảng đường khoa Việt học ở Đại học Paris 7 có đôi câu đối chữ Nôm trên giấy hồng điều đã ngả màu, chữ viết rất đẹp, khuyên học trò phải gắng học. Đó là câu đối của GS Nguyễn Tài Cẩn tặng khoa, lần đầu nhìn thấy bất giác tôi nhớ một lời thơ xưa của Yến Lan:
“Thầy giáo tôi khi tới buổi đầu,
Một hòm sách cũ, tầm màn nâu
Đôi câu liễn giấy long hồ điệp
Nhán nhấm dài theo nét mực tầu”.
TS Vũ Đức Nghiệu, ở khoa tôi, kể với tôi rằng ở khoa Đông Nam Á, Đại học Cornell bên Hoa Kỳ cũng có treo một câu đối Nôm khác của Thầy với nội dung khuyên bảo học trò mà thầy đã tặng khi qua đó thỉnh giảng.
Nói tài hoa của thầy còn phải nhắc đến một người thầy có phương pháp sư phạm cực giỏi. Ông truyền đạt những điều cực kỳ trừu tượng cho sinh viên bằng một lối nói hết sức cụ thể, sinh động nhiều lúc pha màu sắc dí dỏm, dân dã, học xong không bao giờ quên được.
Về tính nghiêm khắc trong khoa học của thầy thì có rất nhiều câu chuyện. Gần thầy, tôi bị thầy mắng mỏ rất nhiều và khuyên bảo chí tình. Một chuyện vui: có lần một sinh viên làm luận văn với thầy, vì không làm đúng lời thầy nên trốn biệt. Ít lâu sau, lo thi tốt nghiệp, sinh viên ấy đành phải đến gặp thầy. Anh này mang theo chè, thuốc đến tạ thầy. Thầy nhận ngay, nhưng sau đó bắt sinh viên ấy phải ở lại luôn nhà thầy nấu cơm ăn, viết cho đến lúc kỳ xong luận văn mới thôi.
Các giai thoại về thầy thì nhiều nhưng vượt lên tất cả là cái tâm xây dựng ngành Ngôn ngữ học Việt Nam. Suốt đời thầy chỉ hướng vào một mục đích là đào tạo và xây dựng học thuật, xây dựng đội ngũ, xây dựng theo hướng chính quy, hiện đại nhưng không xa rời thực tế Việt Nam. Những công việc chuyên môn chưa làm được, thầy rất buồn. GS Hoàng Trọng Phiến đã nói rằng: “GS Nguyễn Tài Cẩn đã thổi một luồng không khí mới vào ngành ta, đã đào tạo bao nhiêu học trò cho ngữ học nước ta, ông xứng danh với những danh hiệu cao quý của khoa học”.
Thầy tôi suốt đời sống giản dị, giản dị tới mức đạm bạc, tuy ông không thiếu thốn gì. Khi ở nhà cũng như khi đi ra nước ngoài, ông luôn giữ một phong cách riêng mà ông vẫn thường nói là của “Người xứ Nghệ”.
Vào dịp ông 70 tuổi ta, ở xa quê, tôi nhớ tới thầy và trong một đêm đông tuyết lạnh tôi viết mấy vần thơ Đường luật vụng về, gửi đến thầy nơi quê nhà:
“Thấm thoát thầy ta đã bảy mươi,
Dặm dài năm tháng những buồn vui,
Một đời dạy dỗ tâm trong sáng
Ba bước phong trần dạ có nguôi.
Học trò lớp lớp bao tôn kính,
Bầu bạn xa gần những đón mời.
Trà rót minh niên buồn cố sự²
Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi”.
(Québec, 1995)
Tiểu khúc thứ hai
Năm năm sau. 2000.
Thời gian đi nhanh thật. Thầy tôi đã bảy mươi lăm tuổi, còn lớp học trò Ngôn ngữ học của thầy năm ấy, cả bọn chúng tôi bây giờ đều đã ngót nghét lục tuần. Thấy thầy còn khỏe và nhanh nhẹn, chúng tôi mừng lắm. Nhưng thầy lại bảo chúng tôi là: “Tôi chỉ mong cho khỏe mà làm việc, nếu tôi thọ bằng ông cụ tôi thì cũng chỉ còn được mấy năm nữa! Phải cố mà viết cho xong các dự định”. Tôi giật mình. Từ ngày nghỉ hưu, thầy làm việc tối ngày, bận hơn lúc tại chức. Viết sách. Tiếp sinh viên, nghiên cứu sinh. Hướng dẫn các cán bộ trẻ. Thầy muốn truyền thụ kiến thức và cả tính trung thực và nghiêm khắc trong khoa học. Chuyện khoa học thầy chẳng bỏ qua chi tiết nào. Nghe con gái tôi theo nghiệp của cha, một hôm thầy gọi tôi đến nói: “Tôi mới đọc một bài của cháu viết, anh nên chú ý rèn cho cháu thói quen đi vào khảo sát các tư liệu nhiều hơn, trước khi cháu bàn vào những chuyện lớn hơn”. Tôi ngạc nhiên và xúc động, tự trách mình vì chính tôi cũng chưa dành thì giờ đọc bài của cháu. Nhớ lại, xưa thầy đã từng dạy tôi như thế, nay thầy lại qua tôi mà dạy con tôi.
Từ ngày nghỉ hưu thầy đã viết và cho xuất bản ba cuốn sách. Toàn những cuốn suy nghĩ cả một đời người, nghe tên đã thấy khó: “Ngữ âm lịch sử tiếng Việt”, “Hán văn Lý - Trần”,… Nay thầy lại đang viết sắp xong sách “Cổ Hán - Việt”, rồi còn định viết tiếp về Hán ngữ trong các nước khu vực, làm Từ điển từ nguyên tiếng Việt (đã xong đến vần C). Nhân việc này tôi nhớ đến hai mẩu chuyện về thầy.
Ông GS Keith Taylor là nhà Việt Nam học có tiếng ở Mỹ, chuyên gia về Ngữ văn và lịch sử Lý - Trần, xin theo học thầy một khóa chữ Nôm, ông kể lại sau khóa học là đã rất ngạc nhiên gặp một nhà học giả Việt Nam uyên bác, thân thiện nhưng rất nghiêm, có phương pháp giảng dạy rất lạ, rất ngôn ngữ học mà có tính thực hành cao, có hiệu quả rõ rệt. Ông đã học với thầy được gần 500 chữ Nôm phổ dụng nhất và còn biết cả cách dùng nó để đọc văn bản, chỉ sau một thời gian ngắn chăm chỉ học.
Một lần khác, có bà giáo sư ở Đại học Sư phạm Hà Nội dạy văn học Việt Nam đã giới thiệu một anh sinh viên người Mỹ đến gặp thầy để học về ngôn ngữ ca dao Việt Nam. Anh này giỏi tiếng Việt, tưởng thầy cho nghe một số bài giảng và minh họa, ghi chép rồi mang về. Ai dè thầy không làm thế. Thầy kiểm tra tiếng Việt, nói qua về nguyên tắc ngôn ngữ của ca dao, giới thiệu một vài kỹ thuật làm ca dao rồi ra bài tập bắt anh này về nhà theo đó mà tập làm cho được ca dao, rồi sau một tuần mang đến để thầy chữa. Lúc đầu khó lắm, nhưng cứ phải gắng tập, sau đó cũng làm được. Thầy khen, chữa, đến khi hiểu được những điều cơ bản qua thực hành rồi thầy mới giảng giải lý thuyết. Thầy kể là có lần anh sinh viên ấy đã tập viết được mấy câu:
“Tôi đến Hà Nội đã lâu,
Biết hồ Hoàn Kiếm, biết cầu Chương Dương,
Tham quan băm sáu phố phường,
Tưởng như gặp lại quê hương thứ nhì.”
Thầy bảo tuy chưa hay, nhưng đúng luật, như thế là giỏi và đáng trân trọng lắm.
Cách đây không lâu, có một tin vui. Năm nay Nhà nước xét tặng giải thưởng khoa học Hồ Chí Minh đợt II cho các công trình khoa học xuất sắc của nước ta. Cụm công trình: “Các vấn đề Ngữ pháp và Lịch sử tiếng Việt” của GS Nguyễn Tài Cẩn là một trong số rất ít các công trình khoa học của khối Ngữ - Văn vượt qua được bốn vòng bỏ phiếu nghiêm ngặt của giới khoa học nước nhà trước khi trình Nhà nước. Thầy đang ở nước ngoài, tôi gửi thư điện tử báo tin. Mấy hôm sau, nhận được thư thầy. Thầy vui vì đã được đồng nghiệp tín nhiệm, nhưng nói ngay với tôi là phải lo làm việc trước khi nghĩ đến được khen. Hai năm trước, thầy được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng nhất, lúc ấy thầy vắng nhà, khi về, thầy xúc động nói với anh em trong chi bộ: “Tôi theo Đảng sắp 50 năm, lúc nào cũng phải gắng làm người Cộng sản trung thực và nhất quán”.
Nhớ năm 96, khi thành lập khoa Ngôn ngữ học ở trường ta, chúng tôi đều vui, thầy cũng vui, nhưng sau đó trầm ngâm nói với tôi: “Lập khoa là để lo nghĩ cách mà phát triển đào tạo và học thuật, gắng đừng để tụt hậu nhiều so với quốc tế, còn lập khoa mà chỉ để cát cứ hành chính thì rất không nên. Các anh phải luôn nghĩ đến sự liên thông, không chỉ giữa ngôn ngữ học với văn học mà cả với các chuyên ngành khác nữa, và phải gắng nghĩ xa, nghĩ dài hơi, có nhiều cái phải rất kiên trì mới mong thấy kết quả”.
Thầy khuyên chúng tôi sống giản dị, làm khoa học đừng chạy theo hình thức vì dễ nhiễm tính giả dối. Nhắc chuyện xưa thầy kể: “Hồi ở Liên khu 4, có lần được bầu làm chiến sĩ thi đua, mình được văn phòng Khu ủy thưởng cho hai điều: một là được ưu tiên tắm xà phòng mỗi tuần một lần và hai là được phép húp nước cơm trước, mỗi buổi chiều, ở bếp tập thể trong mấy tháng, nhờ đó mà khỏi phù thũng. Nước ta nghèo như vậy đấy, nay có khá hơn, nhưng chưa thể xa hoa được. Khoa học, công nghệ chưa phát triển còn chưa giàu được nhanh đâu”. Tôi cảm động.
Thầy tôi, mỗi lần nghĩ đến thầy, tôi thấy một nhân cách khoa học lớn, một trí tuệ lớn của một người can đảm đi vào cái mới mà vẫn giữ truyền thống, luôn luôn nghĩ đến phát triển. Cái tuổi thầy nghe nói cũng khá vất vả, nhưng thầy tôi đã luôn luôn: “Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi”.
Hà Nội, vào thu năm 2000
Thầy tôi - Tiểu khúc thứ ba, những điều chưa nói
Mười năm trước, khi thầy bảy mươi, tôi đã viết tiểu khúc thứ nhất. Chúng tôi nói với thầy:
Cuộc vui nhớ buổi hôm nay,
Chén mừng xin hẹn ngày thầy tám mươi.
Rồi cái ngày ấy đã đến rất nhanh. Nhanh như thời gian tăng tốc.
Thầy tôi nay đã tuổi tám mươi tròn. Nhìn thầy vóc dáng vẫn nhanh nhẹn tuy lưng thầy có còng hơn, tóc thầy có bạc hơn:
Mười năm thầy có già thêm,
Quê hương, thế sự, lắm đêm nghĩ nhiều.
Nhưng trong khoa học thì tư duy thầy vẫn trẻ trung, say mê sáng tạo và công trình của thầy thật hoành tráng. Giữa đường thầy đã nhận Giải thưởng Khoa học Hồ Chí Minh, thầy bước lên đài vinh dự cùng với các tên tuổi tiền nhiệm: Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đức Thảo, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu,…
“Bính dần lòng đạo chẳng pha phôi” là bản lĩnh của thầy.
Được bắt đầu từ một gợi ý văn chương của học giả Hoàng Xuân Hãn trước đó hơn mười năm là phải chăng có thể dựa vào các chữ kỵ húy trong văn bản truyện Kiều mà tìm hiểu lai lịch của bản Kiều gốc qua các diễn tiến. Thầy tôi đã trăn trở, lao tâm khổ tứ và quyết định đi vào một vấn đề đến nay chưa ai làm: đem phương pháp của Ngôn ngữ học lịch sử nghiên cứu văn bản. Thầy khởi đầu với bản Kiều Duy Minh Thị (1872). Một nghiên cứu tư liệu đồ sộ đã được công bố. Rồi sau đó là sách lớn nghiên cứu về các văn bản Kiều Nôm thế kỷ 19. Thầy, bằng cách tiếp tục nghiên cứu các chữ húy kỵ trong truyện, đã mạnh dạn là người thứ nhất đưa ra đề xuất mới về thời điểm Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều khi nhà thơ vừa ngoài ba mươi tuổi (1787 - 1790). Những bài viết gần đây của thầy mang tính khai phá đã gây xôn xao dư luận giới nghiên cứu cổ học về những ý tưởng mới, rất mạnh bạo mà có cơ sở khoa học.
Khi thầy 70 tuổi, tôi đã kính thầy mấy vần thơ viết thư nơi xa (1), nay thầy 80, lại cũng từ nơi xa, tôi xin gửi đến thầy mấy vần họa tiếp:
Mới đó thầy ta đã tám mươi,
Tháng ngày tâm lực có đâu ngơi.
Mười năm sáu sách nên danh phận,
Mấy chốc ngàn trang phải chuyện chơi.
Thầy nêu gương sáng cho đời trẻ,
Trò học đạo thầy đến bở hơi,
Thầy khỏe, thầy vui, thầy sướng thế,
Bạn bè, đồ đệ khắp nơi nơi.
Seoul, 5.2005
Thành công liên tục trong học thuật của thầy tôi chính là ở chỗ ông có một phương pháp tư duy rất hiện đại và đúng đắn. Thầy nắm rất vững các nguồn lý luận ngôn ngữ học ở các bối cảnh lịch sử khác nhau. Mạnh dạn nhưng cẩn trọng, thầy đã ứng dụng có kết quả các lý thuyết ngữ học vào tư liệu bản ngữ, cả hiện đại và lịch sử, mở ra những ý tưởng rất mới.
Tôi nhớ lại những sự kiện từ hơn bốn mươi năm trước.
Năm 1961 thầy về nước sau những năm tháng giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt ở Khoa Hán học trường Đại học Tổng hợp Leningrad. Thầy đã tham gia tích cực vào sự khởi đầu của bộ môn Việt Nam học ở đây và nhà trường đã coi thầy là một trong những sáng lập viên của ngành Việt ngữ khi treo ảnh thầy ở Khoa.
Thầy tôi bảo vệ luận án Phó Tiến sĩ Ngữ Văn đầu tiên của nước ta ở Liên Xô (1960). “Từ loại Danh từ tiếng Việt” là chuyên luận ngữ học được viết ra vào lúc Cấu trúc luận thịnh thời nhưng không được khuyến khích vì đang có chiến tranh lạnh. Tuy viết ở châu Âu nhưng thầy đã không bị cuốn vào cách nhìn “Dĩ Âu vi trung” của tư duy “hình thái học cổ điển” vốn rất phù hợp với truyền thống của các ngôn ngữ biến tố. Thầy đã tìm cách xuất phát từ bản ngữ kết hợp khéo léo với phương pháp Phân bố của Miêu tả luận và cả truyền thống Hán ngữ học để mà đề xuất khái niệm Danh ngữ và một mô hình cấu trúc của nó như đã đi vào sách giáo khoa suốt mấy chục năm nay. Thầy chỉ cho xuất bản chuyên luận này (1975) khi tư tưởng của nó đã được xác lập qua thực tế thăng trầm. GS A.Xapchenko, thầy hướng dẫn luận án của tôi, trong một lần hướng dẫn Xêmina về Từ loại (1976), đã nói với các NCS: “Vào thời điểm đầu sáu mươi mà Nguyễn Tài Cẩn viế Ngữ pháp tiếng Việt dưới ảnh hưởng của Cấu trúc luận là mới lắm và rất mạnh dạn trong Đông Phương học”.
Trở về với giảng đường đại học trong nước (1961), thầy tôi, trong khi nhận ra những khó khăn thực tế của việc nghiên cứu, đã kiên trì từng bước phổ biến những tư tưởng tiên tiến của Đông phương học. Lớp sinh viên chúng tôi ngày ấy lần đầu tiên được biết đến tên tuổi của Meillet, Bodouin De Courtenay, Sherba, Polivanov, Dragunov, Kholodovich, Jakhontov,… qua bài giảng Ngữ pháp của thầy. Thầy gợi ý và truyền bá những tư tưởng học thuật rất quan trọng liên quan đến tiếng Việt nhưng không theo lối cổ điển là giảng thuần lý thuyết mà thầy làm những việc rất cụ thể.
Tôi nhớ lại một thuở:
Mùa thu năm 62, lớp tôi lẽ ra học môn Lý luận về Ngữ pháp tiếng Việt, nhưng thầy đã không lên lớp ngay, không giới thiệu những gì thầy đã nghiên cứu được, kể cả trong luận án của thầy. Là chủ nhiệm bộ môn thầy yêu cầu chúng tôi học môn Ngữ Âm tiếng Việt trước. Thầy giao cho thầy Nguyễn Phan Cảnh, một thầy trẻ, nhanh nhẹn và có phương pháp sư phạm tốt, lên lớp cho chúng tôi một loạt bài giảng sau đó chúng tôi mới biết là được giới thiệu nội dung công trình nghiên cứu của Gordina, một môn đệ của Đông Phương học Xô Viết. Chúng tôi đã hiểu được rằng âm tiết có cương vị quan trọng như thế nào trong tiếng Việt, cấu trúc của nó, sự đối lập giữa thanh mẫu và vận mẫu, giải thuyết về thanh điệu,… thầy còn giới thiệu các giải pháp khác nữa chẳng hạn như của Andreev, Haudricout, Lê Văn Lý,… Học đi đôi với hành, thầy rèn chúng tôi kỹ năng ghi âm âm vị học và ngữ âm học. Cái thứ hai khó lắm vì phải có cái tai thính, nghe tốt mà tôi thì không có.
Học xong môn này, một hôm thầy Cẩn gọi mấy đứa chúng tôi lên giao trách nhiệm: Bộ Giáo dục vừa nhờ Thầy cùng thầy Hoàng Tuệ soạn xong một bộ sách Ngữ pháp tiếng Việt cho trường phổ thông dạy thử ở Hà Nội và sẽ cho dạy ở trường Trưng Vương và một vài trường. Chúng tôi phải về đọc kỹ bộ sách này, sau đó sẽ theo các thầy đi kiến tập. Trường này đông con gái, thầy dặn dò thêm chúng tôi: “Xuống đó gắng kiến tập cho tốt mà dạy thử, đông con gái đừng có mà láng cháng nhá!”. Chúng tôi sợ nghiêm lệnh của thầy nên nhiều buổi đi theo thầy Đoàn Thiện Thuật đến lớp mà cứ ngồi nem nép ở cuối lớp. Bộ sách đó thật là tốt. Đến nay tôi chưa thấy bộ nào tốt hơn thế vì lẽ quan niệm của sách này rất mới, rất Việt Nam, có tính sư phạm cao, nhất là có nhiều bài tập hay và thiết thực. Tiếc thay, ngày ấy, Bộ Giáo dục, qua Viện Phương pháp và Chương trình, đã từ chối nhân rộng sách và không cho dạy đại trà. Bước vào chiến tranh và cho đến tận gần đây, các trường phổ thông ta lại quay về và duy trì một lối dạy ngữ pháp truyền thống vừa khô khan, cổ lỗ vừa giáo điều. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, theo thời thượng, người ta lại bất chợt nhồi nhét cho học sinh những kiến thức “tân kỳ” mà ngay cả thầy cô của các em cũng khó lòng tiếp nhận một cách có bài bản để mà hiểu, huống hồ nói là dạy. Cách đây không lâu, tôi đã thử lấy một cuốn sách ngữ học cuối cấp phổ thông để làm tài liệu tham khảo cho một lớp cao học (!), lúc đầu nghe thế các học viên đã cười ồ. Thế nhưng sau đó ít lâu thì họ thi nhau kêu khó.
Thời đó, việc in ấn rất khó, thầy thường đưa những tài liệu quý cho chúng tôi chép tay. Tôi nhớ thầy đưa cho tôi chép một bản sách đánh máy tiếng Nga cuốn Ngữ pháp tiếng Hán của A. Dragunov (1941). Thầy đã bỏ một khoản tiền lớn thuê đánh máy mang về nước vì sách này có những ý tưởng rất quan trọng về Đông phương học, trong đó có việc đánh giá “hình tiết” (Morphosyllabema) chính là một loại “đơn vị chất lượng” của ngữ pháp một ngôn ngữ đơn lập. Chép tay xong rồi thì tập dịch sang tiếng Việt, vừa học kiến thức vừa học ngoại ngữ. Nhờ đó mà tôi còn nhớ nó đến ngày hôm nay.
Thầy tôi tiếp tục cải tiến và nâng cấp những suy nghĩ chung quanh cấu trúc Danh ngữ. Một buổi tối đầu năm 64, nhân chữa khóa luận và phê tôi chưa biết lối viết cho chặt chẽ, tôi đến căn phòng thầy mới tạm dọn về khu tập thể Kim Liên, thầy đã đưa cho tôi xem hai bài mới viết, một bài là về nghiên cứu Loại từ mới công bố ở Liên Xô năm trước. Thầy bắt đầu nghi Loại từ là cái trung tâm ngữ pháp của Danh ngữ. Rồi một bài nữa mới vừa viết xong về xử lý chức năng các thành tố phụ trong Đoản ngữ để gửi tham dự hội nghị Khoa học sắp họp ở Bắc Kinh. Trong bài đó, lần đầu tiên tôi thấy thầy dùng các thuật ngữ: định tố, bổ tố, trạng tố,…
Trong những tháng năm chiến tranh gian khổ, khi trường sơ tán ở huyện Đại Từ (miền núi Thái nguyên), thầy tôi bước vào tuổi bốn mươi. Nay ai bốn mươi thì thấy còn trẻ lắm, nhưng thuở ấy trông thầy già và khắc khổ. Thầy đã có nhiều nếp nhăn trên trán vì suy nghĩ.
Ở Đại từ thầy tôi tiếp tục phát triển các tư tưởng đã hình thành: Một bài viết về “từ tiết” (Slovomorphema) đã được công bố, khẳng định tính trung gian của âm tiết tiếng Việt trong mối quan hệ giữa từ và hình vị truyền thống. Một bài thứ hai dành cho việc dùng Đoản ngữ, như một tiêu chuẩn phân bố, để “cải tiến công tác” phân định từ loại tiếng Việt. Tôi vẫn nhớ hai bản báo cáo ấy lần lượt được thầy trình bày trong cái lán nứa của lớp vỡ lòng ở xóm Hưng Đạo, xã Vạn Thọ trong cuộc hội nghị khoa học của Khoa tôi, mùa hè năm 1966.
Cuốn sách “Ngữ pháp tiếng Việt” (tiếng - từ ghép - đoản ngữ) nổi tiếng (1975) được thầy khởi thảo từ năm 1967 ở Đại Từ, đến lúc hết sơ tán trở về Hà Nội (1969) thì vừa xong. Nhưng thầy trăn trở mãi, đưa bản viết tay cho anh em chúng tôi đọc, làm Xêmina cho sinh viên nhiều khóa, thầy thận trọng từng chi tiết, câu chữ. Nhớ nhất là thầy trăn trở khi đề xuất giải pháp “một trung tâm, hai vị trí (T1-T2)” cho cấu trúc danh ngữ. Chỉ đến lúc thật an tâm thầy mới cho in. GS V.Xônxev, có lần đã nói: “Nguyễn Tài Cẩn, ông ấy thật sự đã tạo ra một trường phái của Việt ngữ học”.
Chúng tôi mong muốn thầy tiếp tục viết về cú pháp tiếng Việt, nhưng thầy nói: “Dạy thì được thôi, tôi vẫn dạy đấy chứ, nhưng nghiên cứu thì phải có thời gian, mà lý luận quốc tế thì đang thay đổi nhanh chóng lắm. Ngay N.Chomsky mới đó (1957, 1965) mà đã thay đổi rồi. Có lẽ phải để cho lớp sau nhạy bén hơn!”. Trong thực tế, thầy tôi đã tìm đến một sở trường mạnh hơn và khó ai làm được trong những người cùng thời và cả sau thầy nếu không có vốn: Nghiên cứu Việt ngữ học lịch sử. Ba mũi nghiên cứu thầy cho triển khai cùng một lúc: Hán - Nôm, Ngữ âm lịch sử tiếng Việt và Ngữ pháp lịch sử tiếng Việt. Thầy chủ trương kéo cả học trò và đồng nghiệp cùng làm. Một nửa giải thưởng Khoa học Hồ Chí Minh của thầy thuộc lãnh vực này. Và sau đó là thầy tiếp tục trong mấy bộ sách gần đây.
Mùa hè nóng bỏng của chiến tranh năm 1972, thầy trò chúng tôi lại chạy tản cư tranh bom Mỹ.
Đầu hè, chúng tôi theo thầy đi dạy một lớp đại học Thông tin - Văn hóa sơ tán ở Đan Phượng Hà Tây. Buổi trưa, mọi người hay đánh cờ hoặc ngủ trưa dưỡng sức ở nhà dân, còn thầy thì tranh thủ mang sách bút lân la ra quán nước đầu làng để làm việc. Quán nước kề vào ngôi miếu xưa, thấy có chữ Hán, thầy liền kiếm thang trèo lên sát nóc coi thì thấy có những tấm ván có chữ cổ. Là nhà học thuật dày dạn, thầy tôi đã nhanh chóng phát hiện ra một kho quý ván khắc đời Lê sơ mà lịch sử in ấn mới chỉ biết đến thời điểm muộn hơn. Đó là bản khắc ván bản “Cao thượng Ngọc hoàng Bổn hạnh Tập kinh” rất quý. Thầy tôi đã dành công sức khảo luận bản này và viết một loạt bài đóng góp khiến cho giới sử học và cổ học chú ý. Tôi biết thầy đã chuyển sự chú ý sang lĩnh vực Hán học.
Cuối thập kỷ bảy mươi là thời kỳ khó khăn của nước ta trong đối ngoại. Với bản lĩnh và am hiểu tình hình, thầy tôi đã quyết định cho xuất bản: “Nguồn gốc sự hình thành cách đọc Hán - Việt” (1979). Ai cũng cảm thấy ngại ngần trong bối cảnh nhạy cảm và rất phức tạp lúc ấy. Cuốn sách có nội dung rất phong phú và khoa học này đã nhanh chóng nhận được sự đánh giá rất cao ở trong và ngoài nước. Đến nay, đây vẫn là cuốn sách tốt nhất trong địa hạt này. Thầy tôi đã đến Nhật Bản thảo luận vấn đề này với các nhà khoa học trong một hội thảo lớn về “Tiếng Hán trong khu vực” (1986) do tập đoàn Ashahi tổ chức, có cả bàn tròn trên truyền hình với Hashimoto chủ thảo.
Cuốn sách “Một số vấn đề về chữ Nôm” (1983) đã cho thấy một lối tiếp cận mới của thầy tôi so với lối phân tích truyền thống hiện hữu. Bằng vào ngữ âm lịch sử và các so sánh lịch đại thầy đã làm sáng tỏ thêm nguồn gốc, các lối viết chữ Nôm cũng như việc xác định tâm và giới hạn của các đường biên của chữ Nôm. Thầy còn đối chiếu Nôm và Quốc ngữ sau khi cùng cô chép tay cả bản từ điển của Alexandre De Rhodes. Mười năm sau thầy lại cho ra đời cuốn Hán văn Lý - Trần (qua thơ Nguyễn Trung Ngạn), giới thiệu một lối nghiên cứu văn học Việt Nam Cổ - Trung đại theo cách tiếp cận văn bản của Ngôn ngữ học. Cuốn sách đã được giới ngữ Văn học tiếp nhận nồng nhiệt.
Cuối thập kỷ tám mươi, đầu thập kỷ chín mươi thầy tôi đã bắt đầu chuẩn bị viết giáo trình Ngữ âm Lịch sử tiếng Việt sau một thời gian dài tích lũy tư liệu cho địa hạt này. Thầy đã có những cuộc trao đổi khoa học rất bổ ích với các nhà khoa học danh tiếng như Haudricourt, Diffloth, Ferlus,… về Tiền Việt - Mường, Môn - Khơme, Nam Á, Mèo - Dao, trong các chuyến đi dạy và nghiên cứu ở Pháp và Mỹ. Thầy cũng đã có một nhóm học trò quan tâm và theo học: Sokolovskaja, Nguyễn Văn Lợi, Trần Trí Dõi, Barbara,… “Ngữ âm lịch sử tiếng Việt” (1995) là cuốn Giáo trình Lịch sử tiếng Việt mở đầu rất sâu sắc và nghiêm túc cho môn học này ở Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thầy tôi nghỉ hưu năm 1992, nay đã hơn một Giáp, nhưng thầy đâu có ngơi nghỉ. Số trang thầy viết ra mười năm qua còn dài hơn lúc đi làm. Thầy vẫn cần mẫn, sáng tạo và triệt để trong học thuật nhưng rất mềm mỏng trong xử thế. Thầy vẫn khuyên giải chúng tôi phải thật thà và khiêm tốn. Thầy không vui khi nghe học trò chủ quan, nói to khi chưa chịu học đến nơi đến chốn. Tôi nhớ lời thầy: “Phải luôn luôn đổi mới nhưng cần thật sự cầu thị. Tranh luận là để học nhau mà phát triển. Đừng có hiếu thắng và hư danh. Người ta có nói khác ý mình thì vẫn luôn học được một cái gì đấy”.
Thưa thầy, chúng tôi hiểu rằng nhiều lúc vẫn chưa làm thầy ưng ý, nhưng chúng tôi luôn an tâm có thầy ở bên chỉ bảo. Chúng tôi vẫn nói với nhau thầy là người Quân tử, cả đời thầy khi xếp hàng thì luôn luôn đứng sau, nhưng chính là đứng trước vậy.
Nay thầy Bát tuần, nhìn thầy còn mạnh và minh mẫn. Chúng tôi thấy ấm lòng.
Hán Thành, Hè năm Ất Dậu, 2005
(1) Bài thơ này kính thầy, 2005, viết ở Seoul, tôi gửi thầy vào dịp sinh nhật thầy. Mấy hôm sau tôi nhận được một bức thư rất cảm động của thầy, kèm theo là một bài thầy đáp lại:
“Tám mươi đâu đã chẵn là trăm,
Chúc thọ còn nhiều, năm lại năm.
Vẫn gắng Yoga: theo Đạo thuật,
Vẫn thường thư giãn: định Thiền tâm.
Vẫn như Trang Tử: vui đời bướm,
Vẫn học Ngu Công: rút ruột tằm
Sống: ở, thác: về, tùy phận, phúc
Ấy lời đáp tạ khách tri âm.”
20/5/2005, từ Maxcơva
Dưới đây là một số hình ảnh về thầy GS.TS.NGND Nguyễn Tài Cẩn