Cách đây chưa lâu, vào khoảng những ngày cuối năm 2013, Hữu Đạt cho ra mắt tập thơ Lữ hành, gây sự ngạc nhiên không ít ở người đọc quen biết anh. Việc một người bấy lâu nay chuyên viết văn xuôi bất ngờ chuyển sang viết thơ, thật ra cũng không có gì lạ. Nhưng nếu ai quen biết Hữu Đạt, biết anh vốn là một chuyên gia ngôn ngữ giảng dạy ở bậc đại học, đã để lại hàng chục đầu sách nghiên cứu, vào lúc tuổi không còn trẻ, bỗng làm thơ như chạy đua với thời gian, thì sự ngạc nhiên âu cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng còn ngạc nhiên hơn, chỉ ngay sau một thời gian rất ngắn (hơn nửa năm), anh lại đã có ngay bản thảo tập trường ca Cuộc chiến mười ngàn ngày, thì quả là ngạc nhiên thật
ĐỌC TRƯỜNG CA
CUỘC CHIẾN MƯỜI NGÀN NGÀY CỦA HỮU ĐẠT
Trần Hinh
Giảng viên khoa Văn học
ĐHKHXH& Nhân văn. ĐHQG Hà Nội
Cách đây chưa lâu, vào khoảng những ngày cuối năm 2013, Hữu Đạt cho ra mắt tập thơ Lữ hành, gây sự ngạc nhiên không ít ở người đọc quen biết anh. Việc một người bấy lâu nay chuyên viết văn xuôi bất ngờ chuyển sang viết thơ, thật ra cũng không có gì lạ. Nhưng nếu ai quen biết Hữu Đạt, biết anh vốn là một chuyên gia ngôn ngữ giảng dạy ở bậc đại học, đã để lại hàng chục đầu sách nghiên cứu, vào lúc tuổi không còn trẻ, bỗng làm thơ như chạy đua với thời gian, thì sự ngạc nhiên âu cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng còn ngạc nhiên hơn, chỉ ngay sau một thời gian rất ngắn (hơn nửa năm), anh lại đã có ngay bản thảo tập trường ca Cuộc chiến mười ngàn ngày, thì quả là ngạc nhiên thật.
Trường ca, vốn là một thể loại thách thức với nhiều người vì nó đòi hỏi ở người viết vốn sống dồi dào, cảm xúc mãnh liệt và một sự am hiểu nhất định về thể loại. Vậy nên khi biết Hữu Đạt có “âm mưu” nhảy vào địa hạt trường ca, ban đầu quả thật tôi không tin. Phải đến tận khi cầm trên tay bản thảo Cuộc chiến mười ngàn ngày của anh, tôi mới vỡ lẽ, thì ra với Hữu Đạt không gì là không có thể. Càng thán phục hơn khi biết rằng, ở giữa cái thời buổi “cơm áo không đùa với khách thơ” như hiện nay, một nhà giáo, vốn không bị ràng buộc với việc sáng tác, chỉ trong một thời gian ngắn, trình làng tới hai tập thơ “nghiêm ngắn”, tôi nghĩ, nếu không thật sự say mê tâm huyết, thì không thể có được thành công đó.
Trường ca là một thể loại văn học tương đối đặc biệt nằm giữa hai phương thức sáng tác tự sự và trữ tình. Nó vốn không phải là thế mạnh trong sáng tác văn chương ở nước ta. Bằng cứ cho thấy là, thành tựu trong thơ ca nói chung của người Việt có thể dẫn ra được khá nhiều, nhưng thành tựu trong trường ca thì lại là rất hiếm. Đó là một thực tế. Rõ ràng văn học Việt Nam có rất nhiều nhà thơ, số các nhà thơ từng thử sức mình trong trường ca, có thể nhiều hơn con số mười, nhưng tác phẩm của họ nhận được sự hưởng ứng từ phía người đọc lại khó vượt qua con số đó (Tố Hữu, Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Việt Chiến, Trần Mạnh Hảo, Thi Hoàng, Anh Ngọc, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Anh Thái). Rõ ràng, trường ca là một thách thức nghiêm khắc với các nhà thơ. Bước vào địa hạt này, như đã nói, người làm thơ ngoài vốn kinh nghiệm đời sống, văn học (có sự hiểu biết sâu về mặt thể loại), còn phải khẳng định được trữ lượng cảm xúc với thời cuộc, “sự trường vốn”, giống như một doanh nhân lớn trên con đường doanh thương (dám chấp nhận cả thất bại). Thiếu một trong những yếu tố đó, sẽ thật khó có được sự thành công trong mảng sáng tác này. Chúng tôi nghĩ, là một người từng thử sức trong nhiều lĩnh vực (sân khấu, điện ảnh, văn xuôi), bắt tay viết Cuộc chiến mười ngàn ngày, Hữu Đạt hẳn đã biết lượng sức.
Cuộc chiến mười ngàn ngày được cấu trúc trong 12 chương, bắt đầu với “Khát vọng mùa thu” (chương 1), qua “Ngày toàn quốc kháng chiến” (chương 2), “Mãi mãi Điện Biên” (chương 3), “Khi chúng tôi lớn lên” (chương 4), “Cuộc đối đầu lịch sử” (chương 5), “Những người Mẹ” (chương 6), “Mái trường đại học” (chương 7), “Những ngôi làng” (chương 8), “Trận đánh cuối cùng” (chương 9), “Đất nước chuyển mình” (chương 10), “Thách thức” (chương 11) và cuối cùng là chương mang tên “Thế hệ chúng tôi” (chương 12). Nhìn vào nhan đề các chương, Cuộc chiến mười ngàn ngày, có thể được xếp vào loại trường ca lịch sử. Bởi lẽ từ đầu đến cuối, những sự kiện được đề cập trong các chương gần như ôm trọn lịch sử của đất nước từ ngày Cách mạng Mùa thu, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, qua hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, đến tận khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, đang trong dựng xây và hội nhập. Với thể loại trường ca, tôi cho rằng, cái khó khăn lớn nhất với các tác giả, đó là cấu trúc. Viết một bài thơ ngắn chỉ đòi hỏi người cầm bút có được xúc cảm dồi dào, một tác phẩm văn xuôi thì lại cần vốn sống, với một trường ca, người ta cần cả hai khả năng đó. Nếu không làm chủ được cảm xúc, tác phẩm của anh chỉ chơi vơi, nhưng nếu không làm chủ được cấu trúc, một bản trường ca sẽ “loạn nhịp”, người đọc sẽ khó lòng hiểu được ý đồ tác giả. Một bản trường ca hay, ngoài sức cuốn hút của các câu thơ, còn phải “neo” được trong lòng độc giả vẻ đẹp, sự chặt chẽ về mặt cấu trúc. Do bản thân trường ca thuộc phương thức tự sự, nghĩa là có yếu tố kể, có một câu chuyện, nên nếu cấu trúc lỏng lẻo, hoặc thậm chí không có cấu trúc, tác giả sẽ không biết dẫn dắt câu chuyện như thế nào. Để kiểm chứng vấn đề này, chúng ta hãy thử khảo sát các bản trường ca nổi tiếng trên thế giới, Iliat, Odyxe của người Hy Lạp, Ramayana và Mahabharata của Ấn Độ, Trường ca Roland của Pháp…Tất cả các bản trường ca này đều đưa đến cho người đọc những câu chuyện rất hấp dẫn, thú vị, chính nhờ chúng có một cấu trúc chặt chẽ.
Ở Việt Nam ta, khái niệm trường ca chỉ bắt đầu xuất hiện trong khoảng những năm 50 của thế kỉ XX. Theo hai tác giả Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức, thì “trường ca là hình thức thơ tự sự, ít nhiều dựa trên phương thức tự sự …. Trường ca còn là hình thức truyện thơ, nhưng không phải truyện thơ nào cũng là trường ca hoặc có màu sắc trường ca.. Nội dung của trường ca thường gắn liền với các phạm trù thẩm mĩ về cái đẹp, cái hùng, cái cao cả. Trường ca thường có cốt truyện không hoàn chỉnh”. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cũng khẳng định: “Trường ca là một thể loại lớn với hai nghĩa: có dung lượng lớn và mang nội dung lớn”; và “Tương quan giữa nguyên tắc trữ tình và nguyên tắc tự sự là một vấn đề trung tâm của thi pháp trường ca”. Một chút liên hệ như vậy để chúng ta thấy được, tại sao các nhà nghiên cứu lại khẳng định, sáng tác trường ca là sự thách thức với tất cả các tác giả.
Trở lại với cấu trúc Cuộc chiến mười ngàn ngày của Hữu Đạt, có thể khẳng định đây là bản trường ca được cấu trúc theo mạch sự kiện lịch sử đất nước. Như chúng tôi đã nói ở trên, với 12 chương của bản trường ca, tác giả Hữu Đạt có ý “ôm trọn” lịch sử đất nước kể từ ngày đầu (mùa thu Cách mạng) đến thời điểm hiện tại (đất nước giải phóng và đang trong quá trình dựng xây, hội nhập). Từ một góc độ khác, trong 12 chương của bản trường ca, ta lại bắt gặp một số chương trong Cuộc chiến mười ngàn ngày tách ra khỏi mạch sự kiện lịch sử, đào sâu vào mạch cảm xúc cá nhân. Có khi đó là cảm xúc về “những người Mẹ” (chương 6); khi thì cảm xúc về “những ngôi làng”; và có khi đó lại là những chiêm nghiệm cá nhân từ góc nhìn thế hệ: “Khi chúng tôi lớn lên/ Vùng chiến tuyến vẫn còn phi chiến sự”, “Chúng tôi lớn lên/ Mây thổn thức giữa đôi bờ ước vọng/ Những bãi bồi nổi những giấc mơ xanh”, “Chúng tôi lớn lên/ Hiểu đất nước qua những bài lịch sử/ Mẹ Âu Cơ sinh bọc trứng trăm con”… Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca Mặt đường khát vọng khi viết về Đất Nước cũng bám vào sự vận động ý thức của thế hệ trẻ thành thị miền Nam hướng về nhân dân, về dân tộc trong những ngày chống Mĩ. Chương 5 bản trường ca Mặt đường khát vọng của ông bắt đầu bằng câu: “Khi chúng tôi lớn lên Đất Nước đã có rồi”…), và cả bài thơ cứ đi theo mạch cảm xúc đó. Tôi cho rằng, Hữu Đạt cũng giống Nguyễn Khoa Điềm ở đặc điểm này: khi viết về đất nước, cả hai đều tìm một điểm tựa từ góc nhìn của một thế hệ cụ thể nào đó (chúng tôi), với Nguyễn Khoa Điềm “chúng tôi” còn rất trẻ, với Hữu Đạt, “chúng tôi” lớn lên cùng sự lớn lên của đất nước, nhân dân. Xét trên phương diện ấy, ý tưởng của Hữu Đạt quả là rất lớn.
Bám sát mạch sự kiện lịch sử của dân tộc, Cuộc chiến mười ngàn ngày mở đầu bằng cảm xúc những ngày mùa thu trước Cách mạng (139 câu), qua cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp (333 câu), lưu lại với “mãi mãi Điện Biên” (227 câu), tiếp tục bằng cuộc đối đầu lịch sử với đế quốc Mĩ (143 câu) đi đến Trận đánh cuối cùng (203 câu) và kết thúc bằng Đất nước chuyển mình. Nếu coi Cuộc chiến mười ngàn ngày là một bản trường ca lịch sử, thì tôi nghĩ với chừng ấy câu thơ bám sát đến tận cùng những sự kiện lịch sử lớn của dân tộc, Hữu Đạt đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Hàng trăm câu thơ được viết bằng cảm xúc của một chàng trai sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng thuộc đồng bằng Bắc Bộ vào những ngày đất nước chiến tranh (dù có đôi câu chưa thật sự chau chuốt),đã toát lên được giọng điệu “hào sảng” của một bản trường ca thứ thiệt. Không giống với một vài thể loại văn chương, trường ca ít nhiều có hơi hướng sử thi (épopée), nên người đọc dễ nhận thấy giọng điệu “sang trọng” toát ra từ câu chữ. Thật khó có thể thống kê hết những ví dụ về các câu thơ mang giọng điệu hào sảng trong cả tập trường ca Cuộc chiến mười ngàn ngày, nhưng chỉ cần lướt qua chương Mở đầu, “Khát vọng mùa thu”, ta đã thấy được dáng dấp “hùng tráng” của nó. Khúc mở đầu (gần bằng dung lượng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu), giống như một cuốn sử ngắn gọn về những ngày đen tối nô lệ của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 139 câu/dòng thơ, Hữu Đạt đã cung cấp cho người đọc nhiều sự kiện lịch sử: những cuộc giao tranh không cân sức với kẻ thù, những vị anh hùng mà ngày nay mỗi người dân Việt Nam đều không thể nào quên, những thời khắc lịch sử quan trọng khi dân tộc mở ra một trang sử mới. Hữu Đạt chọn hình thức thơ theo thể tự do. Đó cũng là sự lựa chọn tất yếu khi mạch cảm xúc bài thơ rõ ràng đi theo hướng này. Lịch sử đất nước những ngày đầu tiên xen kẽ, tương phản trên bảng pha màu trắng/đen, sáng/ tối, bi/ hùng, rên xiết đau thương, nhưng cũng thiết tha tình cảm. Việc lựa chọn hình thức câu thơ là tùy thuộc vào nội dung cảm xúc đó. Chẳng hạn, 4 câu mở đầu được tác giả viết theo thể thơ 9 chữ: “Gần một trăm năm trong xích xiềng nô lệ/ Dân tộc ta nghèo trong đói rách thương đau/ Đất nước lầm than qua bao nhiêu dâu bể/ Trai gái yêu nhau nên điệu lí qua cầu”. Câu thơ dài hơn so với bình thường cũng là cách để tác giả tạo được xúc cảm da diết hơn khi muốn nói về “những nỗi đau” và “những nỗi thương” một thời của dân tộc. Trong khi đó ở đoạn thơ nói về ý chí quật cường của những người cộng sản trong cuộc đấu tranh chống quân thù, nhà thơ lại chuyển sang một hình thức thơ hoàn toàn khác, câu thơ tự do hơn (trong câu chữ), rắn rỏi hơn và cũng cương quyết hơn:
Những trái tim son sắt với màu cờ
Người cộng sản trung kiên
Không bao giờ gục ngã
Trước bạc tiền
Không thể bị bán mua
Bao đồng chí hi sinh
trong lao tù vẫn hát
Những tấm gương
muôn thuở vẫn chói ngời
Dù thân dẫu tan vào trong đất
Mà hồn còn thiêng mãi núi sông ơi!
Tác giả có ghi chú ở ngay trên đầu đoạn thơ đây là hình một chiếc đồng hồ cát. Quả thật tôi chưa có đủ thời gian và trình độ để thẩm định những câu thơ viết theo hình vẽ, một thể nghiệm độc đáo của Hữu Đạt trong bản trường ca này (kể cả trong tập thơ Lữ hành xuất bản trước đó) tạo được hiệu quả bao nhiêu cho những nội dung cần phản ánh của anh, nhưng cứ nhìn trên hình thức văn bản, tôi nghĩ đó có lẽ cũng là một trong những đóng góp của nhà thơ vốn xuất thân từ một chuyên gia ngôn ngữ. Nhân đây cũng muốn xin được nhắc lại, ngay từ tập thơ Lữ hành Hữu Đạt đã có vẻ rất “chăm chỉ’ viết thơ thị giác. Trong tác phẩm thơ này, anh đã có khá nhiều bài viết theo kiểu hình họa. Và trong bản trường ca “ Cuộc chiến mười ngàn ngày”, sự tỉa gọt những hình vẽ trong thơ của anh lại càng “đậm đặc” hơn. Tôi đã thống kê được trong tập trường ca Cuộc chiến mười ngàn ngày có 38 đoạn thơ được viết theo kiểu thị giác với nhiều hình khác nhau khá vui mắt. Đó là: hình cái ly có chân (tr 6), hình mái nhà rông (tr 6), hình cái hũ, hình bầu rượu (tr 7), hình đồng hồ cát (tr 8,26), hình chiếc lư đồng (tr 13), hình cái bình cổ, hình lọ hoa (tr 15), hình chiếc đôn (tr 18), hình chiếc chìa khóa (tr 19), hình con quay (tr 23), hình cây Thánh giá (tr 23, 46), hình tháp xuôi, hình tháp ngược, hình lọ mực, hình lọ lộc bình, hình ngọn nến, hình giọt lệ, hình ngọn đuốc, hình mũi tên, hình trống đồng, hình cây rơm , hình chiếc hũ, hình chiếc lọ độc bình, hình bản đồ Việt Nam… .Một sự kì công tạo nên các hình họa dày đặc như vậy của tác giả không thể không khiến người đọc phải chú ý. Khi bàn về thơ hình họa (hay thơ thị giác) trong lịch sử thơ ca nói chung, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, trong hoàn cảnh cụ thể, nhất thời, viết thơ theo kiểu hình họa cũng có thể mang đến cho người đọc những ấn tượng mới mẻ, thú vị. Thay vì người đọc bấy lâu nay chỉ chăm chú “đọc thơ”, thì nay khi tiếp xúc với thơ từ góc độ hình họa, họ có cơ hội được “xem một bài thơ”. Với cách “đọc này”, những chữ viết tưởng như “vô hình” giờ đã biến thành một bức tranh hay một đoạn phim (như trong điện ảnh). Tôi nghĩ rằng, sự pha trộn loại hình nghệ thuật như thế cũng là một hướng đổi mới sáng tác nghệ thuật hiện nay. Vào những năm đầu thế kỉ XX, trong văn học Pháp, cùng thời kì xuất hiện trường phái hội họa lập thể của Picasso, trong văn học cũng xuất hiện một trường phái thơ hình vẽ (Calligramme), mà tiêu biểu nhất là nhà thơ Apollinaire, tác giả của bài thơ nổi tiếng Cầu Mirabeau. Hữu Đạt trong trường ca Cuộc chiến mười ngàn ngày còn tốn nhiều công sức hơn cho “cuộc chơi” này. Và tất nhiên cũng giống như Apollinaire, cũng có những bài thơ hình họa của anh chỉ thuần túy là một trò chơi hình thức. Nhưng có những bài/đoạn thơ hình họa của anh lại ẩn chứa những thông điệp nội dung theo cách riêng và những thông tin thẩm mỹ thú vị. Vì thế, trong số các thử nghiệm này, cũng có những hình vẽ - thơ của Hữu Đạt đã để lại được trong lòng người đọc ấn tượng đặc biệt. Chẳng hạn, với tôi, khi “xem” và “đọc” kĩ đoạn thơ hình cây rơm (tr.32), tôi cũng như cảm giác được mình đang sống lại với một ngôi làng nông thôn Việt Nam rất điển hình trước đây trong cái nồng nàn của hương lúa:
Trâu ta
ăn cỏ đồng ta
Dù trong dù đục
Ta tắm ao nhà vẫn hơn
Nhớ làng câu hát véo von
Ru ta từ lúc hãy còn trẻ thơ
Nhớ làng qua những giấc mơ
Đêm trăng có tiếng ầu ơ rất buồn…
Đọc (và xem) đoạn thơ hình bản đồ nước Việt Nam (tr.56), chưa cần phải nghiên cứu kĩ nội dung, tôi cảm thấy trong lòng mình bỗng dâng lên một niềm cảm xúc mãnh liệt . Cái hình chữ S mà bấy lâu nay chúng ta vẫn thường nhìn thấy trên tấm bản đồ đất nước bình thường vậy thôi, giờ đây như bỗng có một tâm hồn. Không phải ngẫu nhiên, trong đời sống nghệ thuật gần đây, ta thấy xuất hiện không ít loại hình mới lạ: nghệ thuật sắp đặt, nhạc thị giác, thơ trình diễn…Có lẽ đó cũng là một cách để làm cho nghệ thuật bớt nhàm chán đi chăng? Tôi nghĩ thơ thị giác hay thơ hình họa –hình vẽ cũng đi theo hướng đó…
Ở một phương diện khác, nhìn từ góc độ cấu trúc - tư tưởng, Cuộc chiến mười ngàn ngày, ngoài tính chất một bản trường ca lịch sử, còn là một tác phẩm dồi dào cảm xúc, trăn trở suy tư trước thời cuộc của tác giả. Đây có lẽ cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng với một bản trường ca. Một bài thơ, đôi khi chỉ cần hay (về mặt âm nhạc, âm điệu) thôi là đủ, nhưng một bản trường ca nếu không có điểm tựa tư tưởng, không mang đến cho người đọc một nhận thức rõ ràng về mặt nội dung, thật khó có thể bám trụ trong lòng người đọc. Cuộc chiến mười ngàn ngày song song với những sự kiện lịch sử suốt chiều dài đất nước, còn được cấu trúc xen kẽ những “trữ tình ngoại đề” đầy trăn trở của nhà thơ. Chẳng hạn, sau ba chương đầu về “Khát vọng mùa thu”, “Cuộc kháng chiến chin năm”, và “Mãi mãi Điện Biên”, Hữu Đạt dừng lại để trò chuyện với bạn đọc về “Thế hệ chúng tôi”, thế hệ của tác giả. Sau các chương “Cuộc đối đầu lịch sử”, anh tâm sự về “Những người Mẹ” của đất nước Việt Nam trong những năm gian khổ hy sinh. Rồi trở lại với “Mái trường đại học”, về mảnh đất Mễ Trì mà tôi và anh, thế hệ chúng tôi từng sống và học tập trong những năm chiến tranh, để chiêm nghiệm sâu hơn về những con người đã từng trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ với bao hy sinh, mất mát. Sau đó là cuộc lữ hành trở về với “Những ngôi làng”. Sau “Trận đánh cuối cùng”, “Đất nước chuyển mình”, Hữu Đạt có một chương ngập tràn suy tư về đất nước sau chiến tranh, đất nước trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Cũng giống Nguyễn Duy trong Đánh thức tiềm lực, Hữu Đạt cũng có những câu thơ đầy trăn trở trong trường ca Cuộc chiến mười ngàn ngày:
“Dự án mở thênh thang khắp chốn
Nhà chưa xây tiền túi đã gom đầy
Đất của công lấy từ tay dân chúng
Đền bù chả là bao mà giá đắt trao tay”
Hoặc:
Thời kinh tế thị trường
Lòng người chao đảo quá
Chân lý hôm qua
nay bỗng rẻ như bèo
Bao cái ác lượn lờ
Và đồng tiền đang phá
Những đạo đức ngàn đời
Tan như bọt sóng reo
Cuộc chiến mười ngàn ngày được viết từ 2010 đến cuối năm 2013, đầu năm 2014, ở thời điểm vấn đề Biển Đông chưa nóng bỏng như hiện nay, nhưng trong bản trường ca này, ta đã bắt gặp những câu thơ chứng tỏ tác giả là người khá nhạy cảm, thức thời, một tâm hồn yêu nước không che dấu:
Chúng tôi lớn lên
Hiểu đất nước qua những bài lịch sử
Mẹ Âu Cơ sinh bọc trứng trăm con
Một nửa vác cung tên lên núi
Một nửa đi khai phá những bưng biền
Ý thức với Biển Đông từ thuở ấy
Đã thấm vào mỗi giọt nước vùng biên
Có thể khẳng định, Cuộc chiến mười ngàn ngày là một thành công mới Đạt. Đây là tập trường ca có nội dung phong phú, chân thực giàu cảm cảm xúc với lối viết khoáng hoạt và có nhiều cách tân độc đáo. Đó là một tập trường ca làm giàu có và phong phú thêm mảng thể loại trường ca hiện đại, rất có ích trong việc truyền bá tinh thần yêu nước và ý chí quyết tâm của nhân dân ta trong chiến tranh giữ nước và khắc phục vượt qua thử thách để xây dựng cuộc sống mới hôm nay.
Những ngày giữa hè 2014
Khát vọng mùa thu
Gần một trăm năm trong xích xiềng nô lệ cái ly có chân
Dân tộc ta nghèo trong đói rách thương đau
Đất nước lầm than qua bao nhiêu dâu bể
Trai gái yêu nhau nên điệu “Lý qua cầu”
Mẹ vẫn hát câu đò đưa, ví dặm
Cha ngồi buồn
lật trang sách
Nho gia
Đêm
nô lệ
tối đen
vầng trăng khuyết
Vọng tiếng người xưa:
Ai cứu nước non nhà?
Đất bừng nở anh hùng Tôn Thất Thuyết hình chữ nhật
Người dám hiên ngang đứng dậy phất cờ
Hịch cứu nước Cần Vương tha thiết gọi
Lòng dân mong hăng hái lập chiến khu
Nhưng thế nước đang trong kỳ suy yếu
Thế giặc lại hung như nước triều cường
Chưa được bao năm hình mái nhà rông
Phong trào chết yểu
Bóng tối lại phủ đầy
trên khắp chốn quê hương
Triều nhà Nguyễn ươn hèn
Những quan thần lơ láo
cúi gục đầu cốt sống để cầu vinh
Nước bị nhục màu cờ thêm ủ rũ
Dân ba miền sống trong cành điêu linh
Không thể khoanh tay ngồi chờ mãi
Những cuộc vùng lên nổi dậy khắp ba miền
Nguyễn Trung Trực đốt tàu thù bằng rơm rạ
Hoàng Hoa Thám dựng cờ chấn động cả vùng biên
Nhưng tất cả cuối cùng đều chìm trong bể máu
Bọn đế quốc hung tàn
nào có chịu ngồi yên
Dân nô lệ bao năm
vận nước đành trôi nổi
Nhưng hình cái hũ
người Việt
ngàn năm
quyết không chịu sống hèn
Lại đến lúc hai cụ Phan đứng dậy
Cùng phất cờ kêu gọi cứu non sông
Một người muốn Đông du về phía Bắc
Mượn bàn tay giúp sức của Nhật Hoàng
Một người muốn đấu tranh
bằng hòa bình nhân nhượng
Theo đường lối ôn hòa
trong tư thế cải lương
Nước vẫn mất
Và cụ Phan bị bắt
Vòng tang đeo
đau uất những đêm trường
Nhưng hình bầu rượu
không thể
chần chừ
được nữa
Từ đau thương
Đảng đã kíp ra đời
Hợp nhất lại ba miền
Người Cộng sản
Cùng mục tiêu
phải thành một mà thôi
Luận cương viết:
Nước phải thành độc lập
Đất ngàn năm phải trả lại dân cày
Những công xưởng, hầm lò nhà máy
Công nhân thành người chủ dựng xây
Đường lối mở toàn dân náo nức
Cùng nắm tay đoàn kết Công Nông
Cờ Xô viết rợp trời cháy bỏng
Nghệ An sục sôi khí thế anh hùng
Một tiếng gọi Đô Lương trống thúc
Khắp Nam Đàn cùng lúc xông pha
Máu đã đổ bởi thực dân đàn áp
Nhưng chí khí vùng lên
đã cháy đến muôn nhà
Cuộc khởi nghĩa bị dìm trong bể máu
Bài học đầu tiên cho tranh đấu lợi quyền
Không thể vội khi thời cơ chưa đến
Lực lượng chưa nhiều
thì chưa thể vùng lên
Trong mất mát hy sinh
ta mới càng thêm hiểu
Những trái tim son sắt với màu cờ hình đồng hồ cát
Người Cộng sản trung kiên
không bao giờ gục ngã
Trước bạc tiền
không thể bị bán mua
Bao đồng chí hy sinh
trong lao tù vẫn hát
Những tấm gương
muôn thuở vẫn chói ngời
Dù thân đã tan vào trong đất
Mà hồn còn thiêng mãi núi sông ơi!
Những Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai
Những Tô Hiệu, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập…
Những đảng viên, hàng chục ngàn người, không sao kể hết. Đã hy sinh trong lao tù đế quốc. Đã xả thân cho một nền độc lập. Đã vì đất nước tự do, vì con cháu muôn đời mà không chút riêng tư. Sống cũng vì lý tưởng mà chết cũng vì lý tưởng…
Mười lăm năm trưởng thành
Mười lăm năm tuổi Đảng
Gánh non sông trên một chặng đường dài
Thời cơ đến, đây rồi Tổ quốc!
Bước ngoặt này chỉ có một không hai
Dưới lán lá Tuyên Quang, một ông già tóc bạc
Đã ung dung triệu Hội nghị Diên Hồng
Cả nước gọi ông bằng chữ Bác
Hình ảnh Người là hình ảnh núi sông
Sau Tuyên thệ Người vung tay phát lệnh
Dân chúng ào lên như nước vỡ bờ
Phút lịch sử ngàn năm đã điểm
Cháy lòng người khát vọng mùa thu
Đoàn Nam tiến diệt đồn Phay Khắt
Gió ngàn phương xanh mát nắng Nà Ngần
Nhà hát lớn đã treo cờ Tổ quốc
Vang rợp trời tiếng hát của Nhân dân
Huế - Sài Gòn tháng ngày sôi sục
Cờ đỏ tung bay trên khắp phố phường
Vua Bảo Đại cúi đầu dâng kiếm
Nói một câu lịch sử nhớ muôn đời
Nước độc lập tôi làm dân còn sướng
Hơn làm vua một đất nước bề tôi (*)
Tám mươi năm sống trong đời nô lệ
Dân lầm than, trang sử cũng đen bầm
--------------------------------------
(*) Câu nói của Bảo Đại khi thoái vị trao ấn kiếm cho chính phủ Cách mạng
Nay Cách mạng vùng lên
Đất trời rung chuyển hát
Sống một ngày bằng sống cả trăm năm
Trời thu rộng, nắng Ba Đình tỏa sáng
Bác đọc Tuyên ngôn giữa muôn triệu đồng bào
Khai sinh nước Việt Nam từ bàn tay đế quốc
Chung tay thề:
Sẽ sống chết cùng nhau
Dẫu phải đốt cả dãy Trường Sơn
Quyết giữ nền độc lập
Cho bây giờ và cho mai sau…
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn