Những quy tắc cho một chuẩn lý tưởng, ở mức độ thứ nhất là những quy tắc tuyệt đối đúng. Ở mức độ thứ hai, nếu không tuyệt đối đúng thì những quy tắc được mọi người chấp nhận cũng là chuẩn lý tưởng.Những quy tắc cho một chuẩn thực tế là những quy tắc đúng cho hầu hết các trường hợp, trừ một số ít ngoại lệ, và được rất nhiều người chấp nhận. Chuẩn thực tế là chuẩn chấp nhận những biến thể. Một từ thuần Việt, một tên riêng, một từ vay mượn đều có thể có những biến thể và đều có thể được coi là chuẩn. Cái sai quen dùng thì được coi là chuẩn trên thực tế.
Tản mạn về “chuẩn mực chính tả thống nhất…”
(nhân Hội thảo quốc gia Xây dựng chuẩn mực chính tả thống nhất
trong nhà trường và trên các phương tiện truyền thông đại chúng)
GS TS Nguyễn Đức Dân
Không thể có quy tắc chính tả nào đúng tuyệt đối
Những quy tắc cho một chuẩn lý tưởng, ở mức độ thứ nhất là những quy tắc tuyệt đối đúng. Ở mức độ thứ hai, nếu không tuyệt đối đúng thì những quy tắc được mọi người chấp nhận cũng là chuẩn lý tưởng.
Những quy tắc cho một chuẩn thực tế là những quy tắc đúng cho hầu hết các trường hợp, trừ một số ít ngoại lệ, và được rất nhiều người chấp nhận. Chuẩn thực tế là chuẩn chấp nhận những biến thể. Một từ thuần Việt, một tên riêng, một từ vay mượn đều có thể có những biến thể và đều có thể được coi là chuẩn. Cái sai quen dùng thì được coi là chuẩn trên thực tế.
Quy tắc chính tả do con người đặt ra. Ngôn ngữ luôn luôn biến đổi, không có cách viết nào là cố định, bất di bất dịch. Bởi vậy, dù có những nguyên tắc chính tả tuân theo một hệ thống khoa học chặt chẽ nào chăng nữa thì với thời gian sẽ luôn luôn tồn tại những hiện tượng chính tả ngoại lệ không theo một lô gích nào cả. Đều không phải con ruột, đã viết con rể tại sao lại còn viết con dâu? Cùng là hàng cây bao bọc, che chắn quanh nhà đã viết bờ rào sao lại còn viết bờ giậu? Lô gích nào biện hộ cho những cách viết khác nhau trên đây về phụ âm đầu d~/gi~/r~?
Vậy thì liệu có một hệ thống chính tả tuyệt đối đúng làm chuẩn mực được không?
Có nhiều quy luật chi phối cách chữ viết. Đôi khi, theo luật này lại mâu thuẫn với luật kia.Thế là sinh ra những ngoại lệ, những “vượt rào” khỏi quy tắc.
Quy tắc bỏ dấu thanh điệu xưa nay căn cứ vào ngữ âm: “dấu thanh bỏ ở âm chính của vần”. Gặp vần có nguyên âm đôi“kìa tiếng chuông chùa bữa trước”, không có chữ nào mang âm chính nên lại thêm một quy tắc cảm tính “dấu thanh điệu bỏ ở vị trí “cân xứng”, “hài hoà”. Thực ra, đây này là luật thẩm mĩ – một quy tắc bất thành văn – trong nhận thức về chữ viết của người Việt: “hình chữ phải đẹp”.
Có những trường hợp, tôn trọng quy tắc này lại vi phạm quy tắc kia. Bỏ dấu theo quy tắc ngữ âm chúng ta viết hoà bình, loá mắt, trắng xoá, sức khoẻ, huỷ hoại, cổ suý, Thuý Kiều, … Ấy vậynhưng trong thâm tâm, nhiều người thích hình chữ phải đẹp nên vẫn viết hòa bình, lóa mắt, trắng xóa, sức khỏe, hủy hoại, cổ súy, Thúy Kiều,…Vậy là trong những trường hợp trên không thể có một chuẩn duy nhất, chúng ta chấp nhận có hai biến thể thực tế đều được coi là chuẩn.
Viết i hay y cũng liên quan tới luật thẩm mĩ hình chữ phải đẹp.
Theo quy định của Bộ Giáo Dục, phải viết kì lạ, lí luận, vật lí, mĩ vị, Nam Kì. Quy định này trái với cách viết trên báo chí thời xưa: Trong Gia Định Báo năm 1881, 1882 hay trong Nông Cổ Mín Đàm năm 1902, chúng ta gặp: ký tên; thơ ký; trong kỳ 15 ngày; xem kỹ; Nam-Kỳ; kỳ nhứt; anh lấy làm kỳ; Lý văn Ngọc; chánh lý; chưởng lý; mạng lý; có lý lắm; làng Bình-hy,…
“Hình chữ phải đẹp” trong thâm tâm người Việt là cần cân đối về độ cao giữa các con chữ trong một từ. Đại để là trong một từ nếu con chữ một phụ âm đứng cạnh /i/ nhô cao lên thì ta viết y nhằm tạo ra sự hài hòa trên dưới. Nhiều người thường ‘phá rào’ ở quy định viết i này. Viết lý thì phần trên và phần dưới chữ này cân đối với nhau, còn viết lí thì phần dưới chữ này hơi bị hẫng. Và người ta viết quản lý, lý luận, lý lịch, môn vật lý, kỹ thuật, … Cách viết Hoa Kỳ cũng theo cái lý này. Những phụ âm nào cùng độ cao đứng trước với /i/ thì có khuynh hướng dùng i: si mê; mị dân; chim ri; rên rỉ ; xanh rì; vi phạm; vì sao; vị trí;…
Điều thú vị là viết nước Mỹ vẫn theo đúng luật thẩm mĩ. Chữ M (viết hoa) nhô cao hơn chữ i nên mới viết Mỹ chứ không viết nước Mĩ.
Viết tên riêng nước ngoài thế nào?
Mỗi dân tộc ghi tên riêng theo hệ chữ viết của mình. Một tên riêng có nhiều biến thể, những biến thể lịch sử và những biến thể do quy luật tiết kiệm nội tại của ngôn ngữ. Nghĩa là không có một tên riêng duy nhất chuẩn.
Tên riêng nước ngoài nhập vào tiếng Việt trước hết qua tiếng Trung Quốc và được viết có dấu nối: Anh-Cát-Lợi, Ba-Lê, Luân-Đôn, Hoa-Thịnh-Đốn, … Sau đó những dấu nối được bỏ đi.
Chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp, tiếp đến là tiếng Anh nhiều tên được chuyển lại theo cách đọc Pháp, rồi cách đọc Anh hoặc trở lại nguyên gốc: Pari; Oa sinh tơn. Nhưng vẫn gọi Luân Đôn vì âm khá gần với âm gốc London.
Do nguyên lý tiết kiệm trong ngôn ngữ, nhiều tên riêng tự động được rút gọn thành những tên một âm tiết nghe rất Việt Nam: Anh, Úc, Ý, Áo, Mỹ,… Báo chí thường viết ‘HLV người Bồ Calisto’ chứ ít viết ‘HLV người Bồ Đào Nha Calisto’.
Nên phiên âm hay giữ nguyên dạng tên riêng nước ngoài?
Theo quan điểm phiên âm sẽ gặp nhiều trở ngại.
Có những từ nước ngoài phiên âm thế nào cũng dẫn tới những cách đọc không đúng như từ gốc. Nên phiên âm từ Genève[1] thế nào? Giơ-ne ; Giơ-ne-vơ; hay Giơ-neo? Theo cách nào thì người Việt bình thường cũng cứ đọc không chuẩn như nguyên ngữ, sẽ nhấn mạnh tới âm tiết đứng cuối ne, vơ, neo. Nghe rất kỳ. Tiếng Việt thiếu nhiều vần có trong các thứ tiếng khác nên rất nhiều từ không thể có phiên âm chuẩn.
Nhiều tên riêng chứa đựng ý nghĩa, nếu phiên âm sẽ xóa đi nghĩa có trong nguyên ngữ. Ví dụ: “Khi còn cầm quyền, tổng thống Pháp Sarkozy và bà Merkel đã hình thành liên minh “Merkozy” (báo, 08.5.2012). Phiên âm thế nào cái tên Merkozy (lấy phần đầu tên nữ thủ tướng Đức Merkel nhập vào phần cuối tên ông Sarkozy) trong câu trên để nói được rằng đây là liên minh của hai chính khách trên?
Nguyên tắc cơ bản của việc viết tên riêng nước ngoài theo hệ chữ Latinh là phải viết đúng tới mức tối đa có thể theo mặt chữ như nó vốn có
Đầu óc tôn ty của người Việt dẫn tới những mâu thuẫn khi viếttên riêng Trung Quốc.
Trước đây bất kể tốt xấu, cao thấp, cứ tên riêng Trung Quốc là được phiên âm theo cách đọc Hán Việt: Bắc Kinh, Khổng Tử, Tôn Trung Sơn, “cầu thủ bóng bàn có quái chiêu Trương Nhiếp Lâm”,… Trong sâu thẳm tâm thức người Việt cảm nhận sự gần gũi thân thuộc khi đọc một tên Hán – Việt. Trong vòng mươi lăm năm gần đây, theo thông lệ quốc tế tên riêng của những người Trung Quốc hạng “bình dân” dần dần được viết bằng chữ Latinh và phiên theo âm Bắc Kinh. Tên của những nhà vô địch bóng bàn thế giới đã được viết là Kum Pu Ru, Wang Hao chứ không còn mấy ai viết là Khổng Lệnh Huy hay Quang Hạo. Đó là sự hội nhập quốc tế tích cực. Tuy nhiên, với đầu óc tôn ty người Việt vẫn gọi những người đứng đầu nhà nước Trung Quốc theo tên Hán-Việt: Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình… Vậy là thiếu nhất quán. Tôi đồng ý với PGS Đoàn Lê Giang, từ nay trở đi tên riêng Trung Quốc cần viết theo phiên âm Bắc Kinh: hai tên này nên phiên là Hú Jǐntāo, Xí Jìnpíng.
[1] Năm 1954 có “Hiệp định Genève (Thụy Sĩ) lập lại hòa bình ở Đông Dương”nên từ này được phiên âm rất nhiều.