Về bản Kiều vừa được phát hiện ở Vinh

Thứ bảy - 09/02/2008 17:30
GS.TS Nguyễn Tài Cẩn là một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng không chỉ với các công trình nghiên cứu về ngữ pháp và lịch sử tiếng Việt mà cả những công trình nghiên cứu về chữ Hán và chữ Nôm được giới chuyên môn đánh giá cao.  Nhân dịp đầu xuân mới Mậu Tý - 2008, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 1 công trình nghiên cứu mới của Giáo sư về văn bản Truyện Kiều (*).

GS.TS Nguyễn Tài Cẩn là một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng không chỉ với các công trình nghiên cứu về ngữ pháp và lịch sử tiếng Việt mà cả những công trình nghiên cứu về chữ Hán và chữ Nôm được giới chuyên môn đánh giá cao.  Nhân dịp đầu xuân mới Mậu Tý - 2008, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 1 công trình nghiên cứu mới của Giáo sư về văn bản Truyện Kiều (*).
 

                           VỀ BẢN KIỀU VỪA PHÁT HIỆN ĐƯỢC Ở VINH
 

                                                                                                    Nguyễn Tài Cẩn
                                                               
                                                                  ( I )

1/ Một bản Kiều chép tay  vừa được  phát hiện  ở Vinh, trong tủ sách một gia đình con cháu dòng họ Tiên Điền .Văn hoá Nghệ An đã xin Bảo tàng Nguyễn Du ở Nghi Xuân cho phép in photocopie và đã có nhã ý gửi  cho chúng tôi. .Chúng tôi rất xúc  động và kính xin tỏ lòng thành thực tri ân . Sau đây là vài nhận định sơ bộ của chúng tôi,  kính xin báo cáo cùng đông đảo bạn đọc  biết .

2/ Điều đáng tiếc nhất là do có nhiều hoàn cảnh khó khăn trong  các giai đoạn lịch sử vừa qua nên việc bảo quản  đã không giữ nguyên  vẹn được 100% toàn bộ  văn bản  : phần mở đầu  từ câu 1 đến câu 904 , cũng như phần cuối từ câu 2813 đến câu kết thúc đều đã bị để mất. Ở phần giữa  thỉnh thoảng cũng bị  rách nát hay khiếm khuyết  một số đoạn , một số trang , làm cho văn bản lại thiếu thêm khoảng  gần 90 câu nữa . Như vậy chúng ta hiện chỉ còn lại trong tay khoảng một nửa của Truyện Kiều mà thôi . 

3/ Việc biên tập  bản Kiều này chắc đã được tiến hành  trong khoảng từ cuối thế kỉ XIX trở về sau, vì người sao chép đã  có đôi chỗ  kị húy theo thói quen từ đời Thành Thái: như dùng chữ THÌN để thay tên Tự Đức (xin xem câu 981) hay viết chữ CHIẾU  thành chữ CHIỂU (xin xem câu 1417).Thỉnh thoảng cũng có hiện tượng chép sót , chép sai câu này chữ nọ, sau phải móc thêm vào bên cạnh., như hai câu 2067, 2068 chẳng hạn . Và tuy đã có người đọc lại, ghi thêm hai chữ PHỤNG DUYỆT  vào khoảng giữa những  câu  1217--1220 , nhưng vẫn còn có những câu , những chữ bị sót, bị sai hiện vẫn chưa được bổ sung , đính chính , ví dụ hai câu  1213 , 1214 .Căn cứ nét chữ  có thể phỏng đoán có một người chép chính  nhưng đôi lúc người đó cũng đã để cho người khác chép thay vào một số  câu. 
Việc sao chép như vậy là không được thật hoàn mĩ  và tiến hành cũng khá chậm .

                                                              ( II ) 

4/ Tuy nhiên , những gì may mắn còn giữ lại được vẫn hoàn toàn đáng được coi là một di sản rất quí hiếm .
Trước hết , bản tạm gọi là “bản Vinh” này  cũng lưu giữ được rất nhiều nét cổ , không thua gì các bản Duy Minh Thị  (DMT/ 1872), Liễu Văn Đường  (LVĐ / 1871), Quan Văn Đường (QVĐ /1879) Thịnh Mĩ Đường (TMĐ /1879)  v.v. Điều đó thể hiện ra ở 2 điểm sau đây :
---Nó cũng kị húy rất triệt để theo lệnh năm 1803 đầu triều Nguyễn  , ví dụ ::
*** kiêng tránh tên húy Gia Long : như thay  CHỦNG//GIỐNG bằng CHÚNG  hoặc KHÉO  ở câu  1194 và ở câu  2097 ;
***kiêng tránh tên húy mẹ cả Gia Long :như  thay LAN bằng HƯƠNG    các câu 1471 , 1803 , 1988;

 ---Nó cũng lưu lại nhiều vết tích kị húy của thời Lê Trịnh , như :
***kị húy chuá Trịnh Bồng  bằng cách đổi BỒNG thành BUỒNG ở câu 2627 (xin so với cách viết BUỒNG  trong   LNP và cách viết PHÒNG trong các bản  LVĐ, QVĐ,TMĐ );
***kị húy chúa Trịnh Doanh  bằng cách thay bộ MỘC bằng bộ THẢO ở câu 1885( như trong các bản LVĐ,DMT,QVĐ,TMĐ) ;
***tránh xa tên  KHOÁI của vua  Gia Tông bằng cách thay chữ CỘI/CỖI bằng chữ CỔI    câu 1322 ( như trong DMT );
***hay  tránh xa chữ  KỲ của vua Thần Tông  bằng cách thay bộ MỘC của chữ CỜ bằng bộ THỦ câu 1473( cũng như trong DMT ).

5/ Nhưng  đặc điểm đáng lưu ý  nhất của  bản Vinh này là ở chỗ nó có nhiều nét gần gũi nhất với bản DMT. Có thể nói : trong số các bản Kiều cổ hiện biết ,không một bản nào gần gũi DMT bằng nó hay hơn nó.   
a)  Về mặt từ ngữ , giữa bản Vinh và bản DMT/1872  có sự thống nhất khoảng  hơn  81% dị bản chung  trong lúc giữa bản DMT/ 1872 với các bản miền Bắc chỉ đạt tỷ lệ khoảng  60%. Rõ ràng bản Vinh tuy ở miền Bắc nhưng không cùng một nguồn gốc gần với các bản như LVĐ, QVĐ, TMĐ v.v.
    
b)  Và ngay trong việc kị húy cũng đã có thể thấy rõ sự gần gũi đó :
---Trong Truyện Kiều có rất nhiều bản cùng kị húy CHỦNG//GIỐNG ; nhưng trong công việc kị húy  CHỦNG //GIỐNG  chỉ có nó và DMT là hai bản duy nhất  đồng thời  sử dụng lối gọi là “gia dạng “:  xin  xem ở câu 1728  !
---Trong việc thay LAN bằng HƯƠNG cũng vậy : ở câu  1310 cũng chỉ có nó và DMT là hai bản cùng thống nhất tiến hành thay , tất cả các bản còn lại đều vẫn giữ  nguyên chữ LAN !
---Việc kị húy  chúa Trịnh Bồng  lại thêm hai  dẫn chứng : cách viết chữ BỒNG ở câu  2244 ( bỏ bộ THẢO  đồng thời  thay bộ MỘC   bằng bộ THỦ ) cũng như  cách viết chữ BỒNG//BÒNG ở câu  2803 ( gia thêm bộ KHẨU ) hoàn toàn ăn khớp nhau giữa hai bản Vinh và DMT, và  cũng  có sự ăn khớp  chỉ  riêng giữa hai bản ấy với nhau mà thôi .
---Để khỏi dài dòng , có thể kết thúc bằng việc nói   thêm về 2 trường hợp KÌ//CỜ ở câu 1473  và CỘI//CỔI: ở câu 1322 : chỉ bản Vinh và bản DMT là có chú ý đến việc thay tự dạng này  ! Tât cả các bản còn lại đều nhất luật giữ nguyên dạng  vốn có ở trong các bộ  tự điển .    

6/Việc thêm 2 câu  (đưa  4 câu lên  6 câu  hoặc đưa 6 câu lên 8 câu , tùy bản )ở đoạn Sở Khanh mới gặp Kiều  trước nay chúng ta biết cũng mới chỉ qua lời  Cụ Nghè Mai kể lại và cũng chỉ mới thấy ở bản DMT.  Trong DMT , bốn câu phác thảo đầu tiên là: :

                          Quế trong trăng , hạnh trên mây
                       Cát lầm ( hay “cát bày “?) nỡ để cho đầy đọa hoa
                          Tiếc điều  nhầm chẳng biết ta
                       Vể châu vớt ngọc dễ đà như chơi

  
Sau bạn bè khuyên chữa lại và thêm 2 câu vào đoạn giữa , thành 6 câu như sau: :
                           Giá đành trong nguyệt trên mây
                        Hoa sao hoa khéo giã giày bấy hoa
                            Nổi gan  riêng giận trời già
                        Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng
                            Thuyền quyên ví biết anh hùng
                         Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi
Trong 10 câu ấy có những chỗ đáng ngờ như cách viết chữ HẠNH, chữ GAN, chữ GIÀ , nhưng không một bản nào khác có thể cho thêm thông tin ! Nay hoá ra bản Vinh cũng có đoạn ấy ! Thật là bất ngờ !! Và thế là lại thêm một chứng cớ hùng hồn nữa về sự  gần gũi nhau lạ kì  giữa  hai bản Vinh và DMT.
    Chú  thích: Riêng trong bản Vinh còn  thấy có sự  sửa  chữa thêm ở 2  câu  tiếp theo sau đó, so sánh:
---Sơ thảo :              Nàng vừa khuya tựa lầu mai
                         Nghe lời ra cũng dường người sắt đanh
---Chữa lại :            Song thu đã khép cánh ngoài
                         Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh 

7/ Có thể có người ngở rằng  bản Vinh chỉ là một bản sao lại từ bản DMT/1872 ! Không đúng đâu vì hai bên có những điểm khác nhau ! 
a) Vài ví dụ về phương ngữ :
Bản gốc DMT là  một bản đã  đi ngang qua Huế rồi mới vào Nam Bộ. Bản gốc  Vinh, trái lại , là một bản gốc được  lưu giữ tại miền Bắc , không phải kinh qua sự sao đi chép lại ở Huế và ở Nam Bộ như  bản gốc của DMT/1872 .Vì thế :
***Chữ ĐẮNG ở câu 1870 bản Vinh ghi bằng thanh phù ĐẲNG  chứ không ghi bằng thanh phù   ĐÁN/ĐỚN như  ở DMT ;
***Ở câu 1098 chữ  ANH chỉ  tên chim, bản DMTghi nhầm thành chữ   OANH ; nhưng bản  Vinh không   nhầm !
***Ở câu 1734  bản Vinh vẫn ghi KHỦNG KHỈNH chứ  không để KHỈNH  diễn biến  thành  KHỈNH>KHIỂNG>  KHIỂN> KHUYỂN  như trong DMT ..  

b) Một ví dụ về kị húy : Để chỉ con đường đi , trong khoảng từ câu  905 đến câu 2812 bản DMT luôn luôn dùng đúng chữ ĐƯỜNG có bộ THỔ, bản Vinh, trái lại ,trong 60% trường hợp đã bỏ bộ THỔ ! Phải  chăng là để tránh xa cái tên húy của  Dụ Tông (1705-1729) ?
  

c) Và một ví dụ nữa về nội dung văn bản :Bản DMT hoàn toàn không có phần chú thích những lời phê như của Vũ Trinh , Nguyễn Lượng, bản Vinh trái lại, ghi đầy chú thích ở rất nhiều trang ! Và có những đoạn chú thích  rất quí vì rất cổ : như ở khoảng các câu  1515--1540, có chú thích của Vũ Trinh, vẫn dùng chữ  HOÀN , chưa thay bằng  chữ VIÊN, nghĩa là chú thích trước  lệnh  kiêng húy năm 1803 . Bản sao chép về sau cũng chỉ dùng lối viết tắt  thôi, chứ  không  theo đúng lệnh. /1 /  

d) Sơ bộ kết luận :với  những nét riêng  biệt như trên , bản Vinh  không thể là một bản sao lại từ bản DMT / 1872 . Nó chỉ là một bản có cùng  nguồn gốc xa xưa  với bản DMT mà thôi  !

                                                         ( III ) 

8/Cái quí của bản DMT đã được G.S. Hoàng Xuân Hãn phát hiện và hết sức đề cao. Theo G.S. đó là bản gia bảo của dòng họ Tiên Điền vì có gia húy : dùng TRƯỢNG NGHĨA thay cho TRỌNG  NGHĨA để né tránh tên húy của ông chú Nguyễn Trọng.
     Đó lại là bản cổ nhất :
---vì còn nhiều chỗ theo sát truyện Tàu ,chưa kịp nhuận sắc lại ;
---vì các  vết tích né tránh tên vua Lê  chúa Trịnh nhiều hơn các bản khác;
---vì khi Gia Long lên , rất sợ Gia Long nên nó áp dụng triệt để nhất lệnh kị húy năm 1803 .
---và vì về từ ngữ , nó  cũng còn lưu lại nhiều cách nói rất xưa , rất đặc trưng cho hai vùng quê Nghệ Tĩnh và Thái Bình.
    Nhưng nó cũng có  nhiều nhược điểm : nó đã phải đi từ  Bắc vào Nam , bị chép đi chép lại nhiều lần ở Huế, ở Gia Định . Nó lại sai rất nhiều chỗ vì văn bản Nôm  mà lại  giao cho thợ Trung Quốc ở Quảng Đông in thì làm sao tránh được điều đó .
    Vậy nay có thêm được một bản cùng gốc với DMT mà lại có lai lịch khác  DMT  thì còn có gì quý bằng ! Không nên  có ảo tưởng ngây thơ là  ở bản Vinh cái gì cũng hay cũng đúng cả ! Nó tránh được những cái nhược ở  những điểm này của DMT thì nó lại có thể đẻ ra những cái sai kia  ở những điểm khác. Và bên cạnh rất nhiều chỗ cùng đúng ,cùng hay  lại còn có cả những điểm  cùng sai như nhau !
( sai do cùng chấp nhận một lối ghi Nôm không chuẩn mực lưu lại từ xưa , hay sai do sao lại một cách máy móc lối viết của bản cũ ...) .Nhưng dầu sao , nay có thêm một bản nữa , cùng gốc với DMT,  để cân nhắc, so sánh thì cũng hơn hẳn cái thời chỉ có độc một mình bản in năm 1872 ! Có  thể nói cái quý đầu tiên của bản Vinh là  nó đã góp phần vừa có chỗ bổ sung , uốn nắn  vừa có chỗ  ủng hộ ,  củng cố  vừa có chổ đặt ra những điểm nghi vấn cho người nghiên cứu, làm cho cái giá trị  khoa học của bản DMT được  vững chắc hơn thêm  một bước !  

9/ Hơn nữa chúng tôi cũng đã từng cố gắng tìm hiểu vấn đề tác động  của bà con , bạn bè  ,  cũng như  của các vị đã từng tham gia đính ngoa, nhuận sắc , khắc in,  sao chép ......vào bản nguyên tác của nhà thơ , đưa đến 3 loại dị bản  cặp đôi giữa chỉ 2 miền , với số lượng như sau :
                 a) 359  dị bản  có chung giữa DMT và miền Bắc, khác hẳn Huế ;
                 b) 106 dị bản  có chung giữa  Bắc và Huế, khác hẳn DMT ;
                 c) và 101 dị bản có chung giữa Huế và DMT, khác hẳn các bản miền Bắc .
Đi theo hướng này chúng ta thấy : tuy đa số dị bản thường  giống nhau giữa bản Vinh và bản DMT / 82% ở  trường hợp a), 66%     b) và 77% ở c) / nhưng  cũng có một thiểu số dị bản khác nhau giữa hai bên. : một bên sai một bên đúng ; một bên dở một bên hay  hoặc cả hai bên đều vào loại  gần như tương đương  nhau , người đánh giá thế này, người đánh giá thế nọ .
     Xin thử đi vào các dị bản hai bên khác nhau  để minh họa sự đóng góp của bản Vinh.  

10/  Trong  200 dị bản hiện có  thuộc  trường hợp a)  có 18 %  ở bản Vinh khác bản DMT. Trong số đó có thể tìm ra những ví dụ khá thú vị , như :
      Câu             Ở DMT và các bản miền Bắc                                    Ở các bản  Huế
---1005 : BỒNG LAI cách mấy nắng mưa                                                SÂN LAI
---1581 :  Có khi vui chuyện mua cười
    1582 : Tiểu thư lại giở những ĐIỀU đâu đâu                                           LỜI
---2669 :  Giữa vòng nước dẫy sóng dồi
    2670 : Trước hàm rồng cá gieo MÌNH  thủy tinh (//vắng tanh )              MỒI 
---1064 : Trông CHÀNG ,NÀNG cũng ra tình đeo đai                      Trông NÀNG, CHÀNG  cũng
---1358: Đành thân phận thiếp , NGHĨ danh giá chàng                              NGẠI
---1760 :NO(//Nỗi) lòng  NO những bàn hoàn niềm tây                     LUỐNG  những
---2118 : Phải cung rày đã sợ BÀN MÁY CUNG                 sợ LÀN CÂY CONG
---2663 : Vậy nên những TÍNH thong dong                                              CHỐN    
    2664 : Ở  không yên ổn ngồi không vũng vàng
Rõ ràng 3  dị bản đầu  đã được  đính ngoa  ở các bản Huế vì sai điển cố  hoặc sai vần.
Năm dị bản sau cũng đã được   nhuận sắc  cho hay hơn. Chẳng hạn chỉ nhuận sắc TRÔNG CHÀNG ,NÀNG CŨNG  ...thành TRÔNG NÀNG , CHÀNG  CŨNG...là tỏ ra thoát được ảnh hưởng của  Truyện Tàu , nâng cao được uy tín của Kiều , vạch mặt được tính trai lơ của Sở Khanh . Nhưng những sự cải tiến về nghệ thuật đó  trước kia chúng tôi đều qui công cho các bản Huế : hoặc cụ Nguyễn Du thời vào Huế hoặc bạn bè Cụ ở Huế đã chữa lại.
    Nay mở bản Vinh ra thì đã có đủ tất cả các dị bản đúng và  hay đó  (trừ  SÂN LAI đang còn chép ở dạng  ĐÌNH LAI  đọc theo nghĩa  !). Hóa ra  nhờ bản Vinh nay chúng ta mới biết : chính nhà thơ đã cung cấp  sẵn văn  bản chính xác  chứ không phải  lúc đầu sai , sau Cụ hay bạn bè Cụ  mới  đính ngoa, nhuận sắc  ! Và Cụ đã  có văn bản chính xác  đó từ  rất sớm , hồi còn ở quê ! Các bản Huế chỉ có công chép lại mà thôi. 

11/ Trong 72  dị bản hiện có, thuộc trường hợp b), có 34% ở bản Vinh khác DMT . Trong số đó có thể đem ra  so sánh :

     Câu       Ở các bản miền Bắc và Huế                                     Ở bản DMT / 1872

 ---1310      Thang lan rủ bức trướng hồng TẨM HOA             SẠCH HOA
---1479      Tin nhà ngày một VẮNG TIN                                THẦM TIN
---1593      NON  QUÊ thuần vược bén mùi                            NON XUÂN
---1657     GIÓ CAO ngọn lử càng cao                                   GIÓ TUNG
---1798      Lấy câu vận mệnh KHUÂY DẦN nhớ thương        CỔI DẦN
---1991      Thiền trà  CẠN nước (//chén) hồng mai                  RÓT NƯỚC
---2037      Xăm xăm  gõ MÉ CỬA NGOÀI                       GÕ CỬA BƯỚC VÀO
    2038      
Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong

Chỉ đọc qua ai cũng thấy ngay rằng  các dị bản  của phía  DMT đều không hay , thậm chí ở câu cuối còn thất vận . Trước đây chúng tôi dều đành  phải cố gắng tìm cách xử lí : hoặc cho là  bị  chép sai ,phải đính ngoa , hoặc tìm lí do này lí do nọ để  gượng gạo chấp nhận . Nay bản Vinh ủng hộ phía các bản miền Bắc và Huế !Vậy là rõ :các dị bản ở DMT /1872 không phải là sản phẩm của cụ Nguyễn Du ! Đó chỉ là sản phẩm của sự tam sao thất bản trên đường truyền bá từ miền Bắc vào miền Nam mà thôi !

12/ Trong 56 dị bản hiện có , thuộc  trường hợp  c) , cũng có thể dẫn những  câu như :

    Câu            Huế  và DMT / 1872                                  Ở các bản miền Bắc

---1148 : CHÚT lòng trinh bạch từ  SAU CŨNG  CHỪA      XÓT  ... LÂU ĐẾN GIỜ.(LVĐ).
---1258 : Trân cam ai kẻ đỡ thay VIỆC mình                            MỘT mình
---1294 : Ngày xuân lắm lúc QUÊN về với xuân                           ĐI về
---1391 : Quyết NGAY biện bạch một bề                                   NGHE
---1509 : Đôi ta chút nghĩa  ĐÈO BÒNG                                BÈO  BỒNG
---1578 : Nào ai có khảo mà mình ĐÃ xưng                                  LẠI
---1655 : Tớ thầy CHẠY  thẳng đến nơi                                       NHẢY
---1786 : Nước BÈO để chữ tương phùng kiếp sau                  Nước NON
---2018 :  RÀO cây lâu cũng có ngày bẻ hoa                                 TRÈO 
Chúng tôi vừa gắng chọn ra một số câu  trong đó bản Vinh ăn khớp với các dị bản của phía bên các bản miền Bắc.Chọn để tiến hành một sự so sánh cần thiết . Nếu  hai trường hợp trên kia ,chúng ta thấy cột bên phải :
---ở a) cho chúng ta  những dị bản đúng hơn  hẳn, hay hơn hẳn  vì đó là dị bản của cụ Nguyễn Du ;
---và ở b) cho chúng ta những dị bản kém hơn vì là sản phẩm của các lần sao đi chép lại ;
---thì ở đây  không có sự rõ ràng như vậy : sự hơn kém giữa các dị bản tuy có , nhưng có khi không thật dễ dàng đoán định được ngay , một cách hoàn toàn nhất trí. Ngay sau khi biết bản Vinh cũng chép  TRÈO , NƯỚC NON ,  NHẢY, LẠI  ...rồi , chúng ta  vẫn không dám đánh giá ngay một cách quá thấp phía RÀO, NƯỚC BÈO, CHẠY, Đà v.v...! Ví dụ ở câu 1786 , ở sau đã nói  TƯƠNG PHÙNG thì ở trước phải nói NƯỚC BÈO mới đúng với điển cố BÌNH THỦY TƯƠNG PHÙNG của Vương Bột !Vậy có lẽ đây là trường hợp những dị bản đã đòi hỏi  nhà thơ lắm  khi phải suy đi nghĩ  lại nhiều lần trước khi quyết định. Theo thống kê , kết quả cuối cùng  là : bản Vinh đã ủng hộ 77 % phía DMT và Huế , chỉ 23% nghiêng về phía các bản miền Bắc .Phía 23 % này là phía bản Vinh cho chúng ta biết những dị bản  đã  được đem ra cân nhắc nhiều  , chứ cũng vị tất  đã được nhà thơ  ưng ý hẳn .Chúng ta nên tìm hiểu tiếp để  phỏng đoán kết quả cuối cùng trong việc chọn lựa

                                                             (  IV ). 

12/ Đến đây chúng ta mới tạm giải quyết được một vấn đề : cố gắng phân tích để thấy rõ được phần nào sự đóng góp của bản Vinh .Nhưng thấy được cái qúi của nó chưa phải là đã hiểu biết về nó một cách thật toàn diện. Nhiều vấn đề phải thú thật là đang treo.
Xin dẫn chẳng hạn một ví dụ thôi ,  để bạn đọc cùng suy nghĩ : đằng sau lưng bản Vinh hiện có là một bản gốc rất cổ , ai là người chép ra và biên tập bản gốc đó ?Chúng tôi xin thử đoán liều để đưa ra một sự gợi ý : phải chăng đó là cụ Nguyễn Thiện  ?  
a)Bởi vì  về mặt hoàn cảnh chúng ta thấy :
--- Người có thể tiếp cận được với bản Kiều gia bảo của dòng họ thì đó phải là một người của dòng họ mà lại rất thân với tác giả :  Nguyễn Thiện là cháu gọi Nguyễn Du bằng chú,và tuổi lại cũng  suýt soát gần như Nguyễn Du.!
---Người chịu khó bỏ công sức  sao chép Kiều ,  chú thích về Kiều phải là một người đang mê say  đọc Kiều , tìm hiểu Kiều : thì  Nguyễn Thiện lúc đó cũng đang cần rút kinh nghiệm Kiều ,để nhuận sắc Hoa Tiên ! . b)Về mặt quan hệ giữa bản Kiều Vinh và bản HOATIÊN NHUẬN CHÍNH in  năm 1875 chúng ta  lại thấy :
---Các vị chép Kiều thường không chú ý kiêng né tên  húy  của  vua  Dụ Tông  (1705-1729), riêng trong bản Kiều tìm được ở Vinh --không hiểu tại sao -- 60% chữ Đường  lại đều bỏ bộ THỔ để tránh xa chữ húy  THỊ+ ĐƯỜNG của vua ! Và  trong bản HOA TIÊN NHUẬN CHÍNH in năm 1875 của Nguyễn Thiện , --phải chăng vì thế----75% chữ ĐƯỜNG ( 15 trên tổng số 20 trường hợp ) lại cũng viết không có bộ THỔ !
---Cách dùng từ ngữ cũng có điểm tương tự giữa 2 bên :  bản Kiều Vinh đã chữa ĐỊNH LÒNG của DMT ở câu  1496 thành ĐỊNH TÌNH  thì ở HOA TIÊN NHUẬN CHÍNH (1875) ĐỊNH TÌNH lại  xuất hiện trở lại ở câu  625 ;
c) Còn về mối quan hệ  giữa bản 1872 của DMT  và bản 1875 của Nguyễn Thiện thì  tình hình cũng được minh họa bằng  một số ví dụ, như :
---Trong tất cả các bản Kiều cổ , bản DMT / 1872 là bản duy nhất không mở đầu bằng TÀI,MỆNH mà mở đầu bằng TÀI , SẮC :  thì  trong HOA TIÊN NHUẬN CHÍNH , Nguyễn Thiện cũng thay câu của Nguyễn Huy Tự bằng câu  :
                       Trăm năm một sợi chỉ hồng
                     Đặt người TÀI SẮC vào trong khuôn trời
---Thêm vào đó, trong 9 bản  Kiều  thế kỉ  XIX , cũng chỉ có bản DMT dùng  2 chữ DIỄU QUANH (ở câu  274 ) , và 2 chữ đó lại  được Nguyễn Thiện  dùng lại , khi nhuận sắc Nguyễn Huy Tự : xin xem câu 429:   DIỄU QUANH lũng hỏi thung tìm !
      Những  mối liên quan giữa bản DMT , bản Kiều Vinh , bản Hoa Tiên  nhuận chính và vai trò của Nguyễn Thiện  như vừa nêu trên có lẽ không phải là ngẫu nhiên , nhưng  dầu sao chúng ta vẫn cần phải thận trọng, không thể dừng ở bước phỏng đoán! Nhất thiết phải điều tra  tiếp  !Rất mong gia đình đã phát hiện ra bản Kiều Vinh  gắng tìm hiểu trong các chi phái của dòng họ ,xem thử  có thể góp phần soi sáng thêm  được phần nào vào vấn đề này hay không ?



1/  Phần chú thích trong bản Vinh có những chỗ đại để giống như ở LNP hoặc ở KOM nhưng cũng có những chỗ hiện chỉ thấy nó có . Vậy đó là một phần chú thích có tính độc lập riêng

(*) Bài đã đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây